Vì sao nhiều cử nhân, thạc sĩ vẫn thất nghiệp?
08:10 | 16/10/2020
|
Thạc sĩ thất nghiệp
Vì sao cử nhân, thạc sỹ ở nhóm thất nghiệp cao nhất?In bài này Hơn 200.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp Show
Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ riêng trong quý III/2015, đã có thêm hơn 50.000 người trình độ đại học, cao đẳng thất nghiệp, nâng tổng số cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp của cả nước lên hơn 225.500 người và trở thành nhóm có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. So với 6 tháng đầu năm 2015, nhóm trình độ đại học trở lên thất nghiệp tăng từ 4,6% lên 4,9%. Đây là con số tăng mạnh so với các năm 2014, 2013. Những năm trở lại đây, tỷ lệ lao động trình độ đại học, trên đại học thất nghiệp mỗi lần được công bố đều khiến dư luận hết sức “sửng sốt”, dù đáng báo động nhưng dường như vẫn “rơi tự do”, mỗi lúc một tăng. Đánh giá về con số nói trên, PGS Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, nhưng đầu tiên phải kể đến đó là do tâm lý chung của người dân Việt Nam là thích học đại học và học lên cao, không cần biết có cơ hội xin việc làm hay không. Nghĩa là học cứ học, dù chẳng biết học để làm gì, làm việc ở đâu?! Còn PGS Văn Như Cương - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Trường THPT Lương Thế Vinh (Hà Nội) cũng cho rằng, những năm gần đây dù đất nước có nhiều đổi mới, phát triển, song nước ta vẫn luôn tồn tại phong trào hiếu học đến lạc hậu, học vì hư danh. Ai cũng cố cho mình tấm bằng cử nhân, thạc sĩ, chủ yếu để “oai”, nở mày nở mặt với những người xung quanh chứ không phải học để lập nghiệp, để có tương lai tốt. Đây cũng là lý do dẫn đến thực trạng có rất nhiều trường dạy nghề, có tỷ lệ việc làm cao, lương cao nhưng lại rất ít người học, dẫn đến nhiều trường không tuyển đủ học viên. Lấy ví dụ trong hoạt động tuyển chọn nhân lực cho nhà trường, PGS Văn Như Cương chia sẻ: “Tôi đã từng gặp và phỏng vấn rất nhiều cử nhân, thạc sỹ, có nhiều bạn thực sự có tài, nhưng cũng rất nhiều bạn “có vấn đề”. Có người “đi” phong bì lúc nộp hồ sơ, có người bằng giỏi, rất tự tin nhưng chỉ cần hỏi ngoài sách vở chút là lúng túng không biết trả lời ra sao. Do đó, chuyện bằng cấp và đáp ứng chuyên môn thực tế vẫn còn một khoảng cách nhất định”.
Đi học để “giết thời gian”? Bên cạnh tâm lý sính đại học, thạc sỹ của người dân, còn phải kể đến việc đào tạo tràn lan, không sát với nhu cầu nhân lực của đất nước. PGS Trần Xuân Nhĩ cho hay, hiện chương trìnhgiáo dụcphổ thông không đảm bảo được sự phân luồng, định hướng nghề cho học sinh. Nên nhiều học sinh không biết được nhu cầu xã hội đang thiếu ngành gì và thừa ngành gì để đăng ký theo học mà chỉ học theo sở thích cá nhân và gia đình. Bên cạnh đó có quá nhiều ngành đào tạo với số lượng lớn, mất cân đối cũng là nguyên nhân dẫn đến chỗ thiếu hụt, chỗ dư thừa lao động. Về thực trạng học đại học, thạc sỹ xong ra trường vẫn thất nghiệp dù có bằng khá, bằng giỏi, PGS Trần Xuân Nhĩ cho biết: “Những cử nhân, thạc sỹ thất nghiệp đa phần là không đáp ứng được chuyên môn của các nhà tuyển dụng. Do đó để đáp ứng yêu cầu công việc, cũng phải học lại, học các kiến thức hữu dụng, khả năng thích nghi đối với công việc. Nhiều cử nhân thất nghiệp lại chọn cách “giết thời gian” bằng đi học thạc sỹ. Chương trình bậc thạc sỹ hiện tại chủ yếu học lý thuyết, chưa có tính thực hành và nghiên cứu sâu. Do đó, dù có học xong thạc sỹ cũng vẫn cứ thất nghiệp dài dài, cũng bởi thiếu tính thực hành và chuyên sâu”. Cũng theo PGS Văn Như Cương: “Vấn đề hiện nay vẫn nằm ở chỗ chúng ta chưa có một thống kê, dự báo nguồn nhân lực cụ thể, nên người học “mù tịt” thông tin về các ngành nghề và đăng ký học theo cảm tính, đua nhau học ngành “hot”... Cần có dự báo nguồn nhân lực, giúp người học tự đưa ra quyết định lựa chọn phù hợp, chọn đúng ngành, đúng sở trường và đúng nhu cầu của xã hội thì hoàn toàn dễ dàng có công việc phù hợp”. Theo các nhà hoạch định kinh tế, nhân lực, việc phân luồng trong quá trìnhtuyển sinhchưa dựa trên nhu cầu của thị trường lao động. Các trường đại học đua nhau mọc lên, lấy điểm rất thấp. Và đương nhiên, ít ai lại có tâm lý đi học hệ thấp hơn. Hệ lụy là đào tạo trình độ chưa tới, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường thực tế. Bên cạnh đó, người lao động trong nước cũng chưa chủ động trong việc xác định nhu cầu việc làm. Do đó, bản thân họ nên sử dụng thông tin thị trường lao động để điều chỉnh phù hợp với tín hiệu thị trường.
Dân Trí Thạc sỹ thất nghiệp - vì sao?Báo chí đã nói rất nhiều về tình trạng lao động chất lượng cao bị thất nghiệp, hoặc phải nhận những công việc không tương xứng. Không chỉ vậy mà cả thạc sỹ cũng thất nghiệp. Nhiều bài báo đã nêu lên những trường hợp thạc sỹ thất nghiệp đi bán sim điện thoại, ở nhà nội trợ, hay đi phụ xe để lấy tiền xin việc.
Gần đây nhất, ông Nguyễn Bá Thanh phải có bút phê vào đơn xin việc của một thạc sỹ văn học ở Đà Nẵng (VnExpress, ngày 25/9). Vì sao, thạc sĩ cũng không có việc làm, hẳn có nguyên nhân của nó. Theo Luật Giáo dục, mục tiêu của đào tạo thạc sỹ là “giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo” (điều 39). Đồng thời, yêu cầu chất lượng thạc sỹ được đào tạo phải “nâng cao những kiến thức đã học ở trình độ đại học; tăng cường kiến thức liên ngành; có đủ năng lực thực hiện công tác chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành của mình” (điều 40). Thế nhưng, những trường hợp thạc sỹ thất nghiệp được báo chí nêu ra hình như không đúng với mục tiêu và chất lượng đào tạo. Các ‘thạc sỹ thất nghiệp’ này đều cùng lý do- không xin được việc sau khi tốt nghiệp đại học- nên học tiếp để hy vọng bằng thạc sỹ sẽ xin việc dễ hơn. Đây cũng là lý do của phần lớn những người đi học cao học ngay sau khi tốt nghiệp. Rõ ràng, mục tiêu đào tạo thạc sỹ là tạo ra lực lượng lao động có chuyên môn sâu về chuyên ngành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo trong chuyên môn và có khả năng nghiên cứu khoa học. Thế nhưng, hầu hết lý do học cao học là để dễ xin việc như nói ở trên cho thấy, mục tiêu đi học của những người này không đồng nhất với mục tiêu của đào tạo thạc sỹ. Vì thế, không thấy những người này khẳng định một cách thẳng thắn về năng lực chuyên môn lẫn khả năng sáng tạo và nghiên cứu khoa học để phủ nhận việc loại hồ sơ của họ là bất hợp lý ngoài việc khẳng định họ có bằng thạc sỹ. Thêm nữa, hầu hết chỉ thấy các thạc sỹ này nộp đơn xin việc vào các vị trí công chức, viên chức của các cơ quan Nhà nước. Rõ ràng, các vị trí công chức hành chính lẫn chuyên môn ở từ cấp xã/ phường đến cấp sở không cần bằng thạc sỹ. Cũng như các vị trí viên chức trong các trường tiểu học và phổ thông, các đơn vị hành chính sự nghiệp cũng không cần đến bằng thạc sỹ. Vậy, họ cố gắng lấy bằng thạc sỹ để làm gì nếu không có mục tiêu làm việc tại các cơ quan nghiên cứu, hoặc giảng dạy sau phổ thông? Họ vay tiền để đi học làm gì nếu ra trường không xin được công việc đúng với chuyên môn và bằng cấp?Họ học cao, nhưng tư duy và trình độ có thực sự cao? Bằng cấp có tương xứng với năng lực? Như đã nêu ở trên, không thấy các ‘thạc sỹ thất nghiệp’ này khẳng định có đủ năng lực chuyên môn lẫn kiến thức liên ngành, có đủ năng lực làm việc độc lập và nghiên cứu khoa học. Vì vậy, dư luận hoàn toàn có thể đặt ra câu hỏi: Bằng thạc sỹ của họ có tương xứng với năng lực thực sự của họ hay không? Đơn cử trường hợp cô thạc sỹ văn chương được ông Nguyễn Bá Thanh bút phê vào đơn xin việc cho thấy, cô này có bằng tốt nghiệp ĐH ngành sư phạm văn loại giỏi, bằng thạc sỹ văn học loại giỏi. Ấy thế mà lại phải xin đi làm công nhân thời vụ. Mỗi chuyên ngành học đều có những đặc thù về nghề nghiệp, và một người có trình độ cao sẽ khai thác được đặc thù đó trong quá trình tìm kiếm công việc lẫn tạo ra thu nhập của mình bằng đúng chuyên môn đã được đào tạo. Một thạc sỹ văn chương loại giỏi hoàn toàn có đủ khả năng làm việc độc lập bằng chuyên môn để kiếm tiền khi chưa tìm được công việc phù hợp. Ví dụ như có thể cộng tác với các báo, tạp chí chuyên ngành để viết bài nghiên cứu, bài báo, thậm chí cộng tác viết bài đưa tin cho báo chí. Hoặc có thể đi dạy hợp đồng tại các trường phổ thông, thậm chí có thể thỉnh giảng tại các trường ĐH, CĐ. Thực tế trong xã hội đã cho thấy những công việc như vậy không quá khó nếu họ có năng lực thật sự tương ứng với bằng cấp. Hiện tại, không ít các sinh viên ngành văn học, báo chí,… đã làm những việc như vậy khi còn đang ngồi trong giảng đường. Vậy, tại sao một thạc sỹ văn chương loại giỏi không làm được như vậy mà phải đi làm công nhân thời vụ? Rõ ràng, chỉ có thế là kiến thức thực sự của họ không tương xứng với tấm bằng. Sẽ có người đặt câu hỏi rằng, không phải ai cũng viết bài chuyên môn, viết báo được, hoặc xin đi dạy hợp đồng cũng không dễ. Nhưng xin thưa, điều này hoàn toàn không khó khăn đối với một thạc sỹ văn chương loại giỏi. Nếu không làm được điều này, chỉ có thể là năng lực của họ không xứng đáng với tấm bằng, hoặc có vấn đề trong quá trình đào tạo và cấp bằng của các trường ĐH. Trên đây chỉ phân tích một trường hợp cụ thể. Các ngành nghề khác cũng có tính chất tương tự, nghĩa là mỗi ngành đều có một đặc thù riêng trong xã hội, và người có chuyên môn không khó để kiếm việc, kiếm tiền nếu giỏi thật sự. Tất nhiên, cũng không loại trừ một số lĩnh vực hẹp, và sẽ có những người giỏi thực sự khó kiếm việc. Nhưng là khó chứ không phải không thể. Vì sao cứ phải vào Nhà nước? Nhu cầu lao động chất lượng cao là cần thiết, cho cả các tổ chức, DN khu vực tư nhân chứ không chỉ dành riêng cho khu vực NN. Trong tiến trình cải cách đất nước theo hướng hội nhập và phát triển. Khu vực NN sẽ thu hẹp lại ở lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp có thu sẽ chuyển sang cổ phần hóa có vốn Nhà nước hoặc tư nhân hóa toàn bộ. Những lĩnh vực công như giáo dục, y tế, khoa học công nghệ cũng không nằm ngoài xu hướng này. Hiện tại, lao động chất lượng cao của nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu. Các trường ĐH, CĐ cũng như những người học phải xác định rõ đào tạo như thế nào và học cái gì để đáp ứng yêu cầu đó. Nếu một người được đào tạo đảm bảo chất lượng, có đầy đủ kiến thức chuyên ngành và tư duy tương xứng với bằng cấp, thì không khó kiếm một công việc. Thế nhưng, hầu hết các thạc sỹ đều muốn vào làm việc trong khu vực NN như đã nêu ở trên. Phải chăng khu vực ngoài Nhà nước không có chỗ cho năng lực và bằng cấp của họ? Có thể thấy, hầu hết các ‘thạc sỹ thất nghiệp’ được báo chí đề cập đều không phải thuộc các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Và rõ ràng cơ chế tuyển dụng lao động ở khu vực ngoài NN rất sòng phẳng, minh bạch, không cần tiền “bôi trơn”, không quá quan tâm đến bằng cấp, cũng như mức thu nhập sẽ cao hơn nhiều khu vực NN. Vậy tại sao họ lại cố gắng vào NN trong khi biết rõ cơ chế làm việc của phần lớn các đơn vị, cơ quan NN còn nhiều bất cập trong phân công lao động, vẫn còn hiện tượng ưu tiên con ông cháu cha, vẫn còn hiện tượng bỏ tiền để “chạy việc”. Thậm chí, để hoàn thành giấc mơ đó, có thạc sỹ chấp nhận đi làm phụ xe để dành tiền đi xin việc (VnExpress, ngày 20/4). Rõ ràng, có một sự mâu thuẫn đối với các thạc sỹ này, họ muốn nhận được công việc tương xứng với bằng cấp, nhưng lại không thể hiện được năng lực làm việc tương ứng. Trong khi, khu vực ngoài Nhà nước hoàn toàn có thể cho họ cơ hội thể hiện điều đó. Phải chăng, họ chỉ dám nộp đơn xin việc vào cơ quan Nhà nước vì chỉ dựa được vào tấm bằng? Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trước hết, các thạc sỹ này nên tự nhìn nhận và đánh giá năng lực của mình, trước khi đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan từ cơ chế, chính sách của Nhà nước. Trịnh Xuân Báu
TTCT - Lâu nay, dư luận và các nhà quản lý thường quá nhấn mạnh đến con số thất nghiệp của cử nhân, thạc sĩ, nhưng quên mất rằng điều này là không tránh khỏi trong một nền kinh tế thị trường luôn thay đổi.
Mới đây, đại diện của Bộ LĐ-TB&XH cho biết bộ này đang xây dựng đề án “Đưa lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài, giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2025” để trình Chính phủ (gọi tắt là đề án xuất khẩu lao động có trình độ). Dự kiến kinh phí cho đề án này khoảng 1.300 tỉ đồng và hơn 54.000 lao động sẽ tham gia đề án kéo dài gần một thập kỷ. Có thể xem đây là nỗ lực trong việc tạo việc làm cho số lao động có trình độ đang thất nghiệp. Tuy nhiên, không ít người băn khoăn về cơ sở và tính khả thi của đề án này. Nếu không được làm rõ, việc triển khai đề án không những gây tốn kém cho ngân sách, mà có thể chưa thể giải quyết được căn nguyên của thất nghiệp trong nước. Tỉ lệ thất nghiệp “chẩn đoán” sức khỏe nền kinh tế Số liệu việc làm và thất nghiệp là một trong những chỉ báo quan trọng đo lường, chẩn đoán sức khỏe của một nền kinh tế đang tăng trưởng, suy yếu hay ổn định. Chẳng hạn, ở Mỹ, tỉ lệ thất nghiệp thông thường được quan sát trong dài hạn khoảng 5-6% (được gọi là tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên). Tỉ lệ thất nghiệp được báo cáo thấp hơn mức này cho thấy kinh tế đang nóng, ngược lại thì có dấu hiệu nguội lạnh. Khoảng thất nghiệp chênh lệch đó được gọi là thất nghiệp chu kỳ. Đây thường là một cơ sở để chính phủ các nước đưa ra các chính sách điều chỉnh tỉ lệ thất nghiệp trở lại mức tự nhiên, giúp cân bằng, ổn định hóa nền kinh tế. Ở Việt Nam, Bộ LĐ-TB&XH và Tổng cục Thống kê cùng chịu trách nhiệm cập nhật thông tin thị trường lao động hằng quý. Tuy vậy, số liệu việc làm và thất nghiệp hiện nay chưa đủ tin cậy, thường ít được sử dụng trong phân tích sự trồi sụt của nền kinh tế. Một trong những lý do là lực lượng lao động phi chính thức chiếm tỉ trọng tương đối lớn. Thay vào đó, các nhà quản lý và nhà kinh tế thường sử dụng tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tốc độ tăng trưởng vượt quá mức tăng trưởng tiềm năng dài hạn, thì tương ứng tỉ lệ thất nghiệp sẽ thấp hơn mức tự nhiên, và ngược lại. Trở lại với đề án xuất khẩu lao động có trình độ, bình quân bốn quý gần nhất, hơn 185.000 người có trình độ đại học trở lên thất nghiệp, tương đương với tỉ lệ thất nghiệp gần 3,9%, cao hơn khoảng 1,6% so với con số bình quân chung của cả nước (xem bảng). Như vậy điều này có thật sự phản ánh “trục trặc” của nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ phải tìm cách giải quyết? Trước hết để trả lời câu hỏi này, nên bắt đầu bằng việc xem xét định nghĩa “thất nghiệp”. Theo tiêu chuẩn quốc tế, một người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần trước thời điểm khảo sát được coi là thất nghiệp, khi đáp ứng tất cả ba điều kiện: không có việc làm (không làm việc dù chỉ là một giờ, không làm việc làm công ăn lương hoặc việc tự làm), sẵn sàng làm việc và đang tìm việc. Nhưng tại sao luôn có một số người thất nghiệp? Như đề cập ở trên, nền kinh tế luôn tồn tại một tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên mà tỉ lệ thất nghiệp thực tế được quan sát biến động quanh nó. Dĩ nhiên, chính sách có thể tác động làm tăng hay giảm tỉ lệ thất nghiệp, tự nhiên hay chu kỳ. Có hai lý giải cho thấy một số người rơi vào tình trạng thất nghiệp, ngay cả trong một nền kinh tế hoạt động ổn định. Thứ nhất, cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp có thể là do họ cần một vài tháng để tìm việc làm phù hợp với sở thích và kỹ năng (được gọi là thất nghiệp tạm thời). Thị trường lao động không luôn hoàn hảo để một người tìm được việc làm ngay sau tốt nghiệp hoặc chuyển đổi ngành nghề. Lấy một ví dụ, sinh viên A mới tốt nghiệp được ba tháng nay, chưa có việc làm, và vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm qua các trang tuyển dụng trên báo giấy, Internet, trung tâm việc làm và mối quan hệ thân quen. Trong thời gian đó, sinh viên A tạm thời được xếp vào diện thất nghiệp. Số liệu thống kê quý 4-2016 của Bộ LĐ-TB&XH gồm tất cả trình độ phần nào cho thấy thất nghiệp chủ yếu mang tính chất tạm thời, ngắn hạn. Cụ thể, số người thất nghiệp ngắn hạn chiếm đến 3/4 tổng số người thất nghiệp, còn lại là thất nghiệp dài hạn (trên 12 tháng). Trong số những người thất nghiệp trên, có hơn một nửa chưa từng có việc làm trước đó. Thứ hai, một số người thất nghiệp còn là do tác động của chính sách can thiệp vào thị trường lao động như quy định tiền lương tối thiểu đang được áp dụng ở Việt Nam (được gọi là thất nghiệp cơ cấu). Dạng thất nghiệp này thường dài hạn hơn. Đa số người lao động có trình độ nhận mức lương trên mức tối thiểu quy định, nên tác động của lương tối thiểu đến nhóm này hầu như không đáng kể.
Lời giải nào? Một số ý kiến cho rằng cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp là do đào tạo bậc đại học chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Hệ quả của việc cho phép thành lập trường đại học một cách dễ dãi, tâm lý ưa chuộng bằng cấp, và thiếu định hướng nghề nghiệp. Người viết không đồng ý hoàn toàn với các lý giải đó. Chúng ta cần biết thêm rằng suất sinh lợi của việc đi học ở Việt Nam bao nhiêu, liệu lợi ích học đại học có lớn hơn chi phí bỏ ra. Một khi việc đi học có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích hơn thì động cơ học đại học là đúng đắn. Vài năm trở lại đây, tăng trưởng kinh tế tương đối thấp nhưng đã là tiệm cận mức tiềm năng, lạm phát được kiểm soát đã phần nào cho thấy sự ổn định vĩ mô mà nước ta đang trải qua. Điều này cũng hàm ý, dù con số thực tế cao hay thấp hơn, số cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp được thống kê có thể chấp nhận được, tức hiện ở tỉ lệ tự nhiên, chứ không phải là vấn đề quá nghiêm trọng đến mức phải xây dựng đề án xuất khẩu lao động. Lâu nay, dư luận và kể cả các nhà quản lý thường quá nhấn mạnh đến con số (tuyệt đối) thất nghiệp của cử nhân, thạc sĩ, nhưng quên mất rằng điều này là không tránh khỏi trong một nền kinh tế thị trường luôn thay đổi. Đa số lao động thất nghiệp sẽ sớm có việc làm sau một thời gian tìm việc, nhưng ắt hẳn lại có nhóm người mới rơi vào thất nghiệp. Như vậy, có thể nhận thấy cơ sở chưa thuyết phục của đề án tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động có trình độ. Chúng ta vẫn luôn quan ngại về vấn đề chảy máu chất xám, nhân lực có chuyên môn cao ra nước ngoài làm việc, phổ biến hơn là du học sinh ở lại làm việc sau tốt nghiệp. Thực tế này đang diễn ra mà không có sự can thiệp của Nhà nước. Nếu đề án được thông qua, Chính phủ phải bỏ ra kinh phí khảo sát, làm việc với đối tác, trong khi nền kinh tế có thể sẽ mất đi nguồn lực có kỹ năng cho nâng cao năng suất và tăng trưởng.■
Vì sao cử nhân thất nghiệp vẫn cao? |