Aăn cắp bao nhiêu tiền bị khởi tố hình sự

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  1. Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
  1. Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  1. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  1. Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

Trong trường hợp trên giá trị trộm cắp tài sản có giá trị 4 triệu đồng, việc trộm cắp tài sản có giá trị từ hai triệu đồng trở lên là bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên có thể bị xử phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Việc gia đình bạn đã nộp phạt và đền bù được xem là tình tiết xem xét giảm nhẹ theo quy định “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” tại điểm b, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Như vậy trong trường hợp trên tùy vào kết luận điều tra, cáo trạng và tranh tụng tại toà, cùng tình tiết giảm nhẹ và giá trị tài sản mà Tòa án có thể đưa ra mức khung hình phạt cụ thể.

Thạc sỹ - Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ [email protected] (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Theo Luật Hình sự (sửa đổi bổ sung) thì những hành vi trộm cắp tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên bị khởi tố hình sự (thay cho mức cũ là 500.000 đồng); quy định này làm cho số vụ xử lý hình sự giảm do nới rộng giá trị, nhưng trên thực tế số vụ vi phạm có giá trị dưới 2.000.000 đồng tăng lên so với trước khi luật được sửa đổi, bổ sung, do mức xử lý hành chính không đủ sức răn đe. Cử tri đề nghị Chính phủ có hướng dẫn, tăng cường chỉ đạo áp dụng biện pháp hữu hiệu để hạn chế hành vi vi phạm pháp luật phải xử hành chính do tăng giá trị tài sản áp dụng xử lý hình sự.

Tiền sự là tình tiết định tội trộm cắp tài sản của Bản án đã có hiệu lực pháp luật, có được áp dụng tiền sự này để truy tố trong vụ án trộm cắp tài sản khác. - Ngày 01/12/2015, Nguyễn Văn A có hành vi trộm cắp tài sản dưới 2 triệu đồng, bị Công an xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng. Đến ngày 17/02/2016, A đã nộp phạt khoản tiền trên. - Ngày 23/9/2016, A thực hiện hành vi trộm cắp với giá trị tài sản dưới 2 triệu đồng, do có tiền sự nên A đã bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Ngày 17/01/2017, Tòa án xét xử sơ thẩm tuyên phạt A 06 tháng từ giam. Đến ngày 10/9/2017, A đã chấp hành xong bản án. - Ngày 15/7/2018, A tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp với giá trị tài sản dưới 2 triệu đồng, do có tiền án, tiền sự nên A đã bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Vậy truy tố A về tội “Trộm cắp tài sản” ngày 15/7/2018 theo quy định tại các điểm a, b Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 hay chỉ theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015? (Nói cách khác: Tiền sự của A có được sử dụng nhiều lần làm tình tiết định tội không? Có truy tố A về điểm a Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 hay không?) + Quan điểm thứ nhất: Truy tố A về tội “Trộm cắp tài sản” ngày 15/7/2018 theo quy định tại các điểm a, b Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, bởi lẽ: Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định cấu thành tội phạm như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,169,170, 171, 172,174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính”. Theo hướng dẫn tại điểm a Tiểu mục 6.2 Mục 6 Nghị quyết 01/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày 12/5/2006 thì: Đối với các tội mà điều luật có quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” nhưng chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền thì phân biệt như sau: a) Đối với điều luật quy định một tội (tội đơn) thì “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó. Như vậy A đang có 01 tiền án và chưa được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính (có 01 tiền sự) và thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Tiền sự của A được sử dụng độc lập làm tình tiết định tội, không phụ thuộc vào hành vi A đã phạm tội trộm cắp tài sản ngày 23/9/2016, Tòa đã xử phạt và A đã chấp hành phần hình phạt mà bản án đã tuyên. Mặt khác hiện nay chưa có quy định tiền sự được áp dụng bao nhiêu lần để làm tình tiết định tội. Do đó khi truy tố cần áp dụng các điểm a, b Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 đối với A. + Quan điểm thứ hai: Không áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 để truy tố A về tội trộm cắp tài sản, bởi lẽ: Thứ nhất, tiền sự của A là tình tiết định tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, đã bị xử lý hình sự bằng bản án ngày 17/01/2017 của Tòa án và A đã chấp hành xong bản án này. Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự về không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm, thì không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, áp dụng quy định về tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo, khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung này của Cơ quan có thẩm quyền, thì không áp dụng tiền sự trên để truy tố đối với bị can. Kiểm sát viên mong muốn được tham khảo ý kiến của các Cơ quan có thẩm quyền, Cơ quan cấp trên và đồng chí trong Ngành về vấn đề này để việc giải quyết vụ án được đúng quy định pháp luật.

Ăn cắp bao nhiêu tiền thì bị xử lý hình sự?

Lưu ý: Chỉ những giá trị tài sản bị trộm cắp từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm tội trộm cắp tài sản; còn nếu tài sản trộm cắp có trị giá dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo các điều kiện khác.

Trộm cắp tài sản ở tù bao nhiêu năm?

Đối với hành vi trộm cắp tài sản, hình phạt tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm, hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành thì giá trị tài sản tối thiểu trọng hành vi trộm cắp là bao nhiêu?

Như vậy, theo quy định của luật thì người thực hiện hành vi phạm tội phải lấy trộm tối thiểu 2 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

Trộm cắp tài sản của công dân là vi phạm pháp luật gì?

Trộm cắp tài sản là việc cá nhân cố ý thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của cá nhân, tổ chức khác để thu lợi bất chính từ giá trị tài sản đó mang lại. Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).