Bánh chưng bánh dày là thể loại gì năm 2024

"Bánh giầy" còn là tên của loài thực vật Lonchocarpus sericeus thuộc họ Đậu, còn "bánh dày" là tên của loài thực vật Pongamia pinnata, cũng thuộc họ Đậu.

Bánh giầy kẹp giò lụa ở Việt Nam

Bánh giầy (thường viết sai thành: bánh dầy, bánh dày) là một loại bánh truyền thống của người Việt Nam nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng gạo nếp đồ/hấp chín bằng hơi và giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. Bánh thường được làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày Giỗ tổ Hùng Vương).

Cùng với bánh chưng, bánh giầy tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt.

Người Nhật Bản cũng có một loại bánh nhân ngọt tương tự như bánh giầy, được làm từ gạo nếp, gọi là mochi. Người dân ở bán đảo Triều Tiên có bánh tteok, gyeongdan, gaepi-tteok và songpyeon.

Tên gọi và nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt cổ gọi loại bánh này là "bánh chì", về sau "ch" biến âm thành "gi", "i" biến âm thành "ây". Có người nhầm lẫn "dầy" tức là dày, mỏng nên viết là "bánh dầy". Tuy nhiên, chỉ có cách viết "bánh giầy" là đúng quy tắc chính tả.

Bánh giầy gắn với truyền thuyết về hoàng tử Lang Liêu, tương truyền xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6 của nước Văn Lang. Theo đó, Lang Liêu đã được báo mộng để làm ra chiếc bánh giầy hình tròn, tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất; hai thứ này được dùng để dâng lên vua cha trong ngày đầu xuân. Ngoài việc lý giải nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy, sự tích trên nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc và tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn minh lúa nước.

Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như Tày, Mường cũng làm bánh giầy nhưng không gói bánh chưng. Sử gia Trần Quốc Vượng nêu quan điểm rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Một số vùng miền gói bánh ú hay bánh tét, loại bánh hình tròn dài, để thay cho bánh chưng, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.

Cách làm[sửa | sửa mã nguồn]

Người ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho mục đích này nhiều hơn.

Sử dụng và bảo quản[sửa | sửa mã nguồn]

Loại bánh giầy phổ biến nhất là loại trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn tay, được nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ hai cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, giò bò, chả quế, ruốc,...

Có một địa danh gắn liền với bánh giầy, đó là bánh giầy Quán Gánh của làng Thượng Đình (Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh giầy Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm năm bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi.

Ngoài địa danh Quán Gánh (Hà Nội), các địa phương nổi tiếng với sản phẩm bánh giầy được nhiều người biết có thể kể đến như bánh giầy làng Gàu (Hưng Yên), bánh giầy Gia Lộc (Hải Dương), bánh giầy Hà Nam (Quảng Yên, Quảng Ninh), bánh giầy Lạc Đạo (Hưng Yên), bánh giầy Mông ở vùng núi phía Bắc,...

Các loại bánh của nông thôn miền Bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc lại gạo, hoặc ôi thiu.

Với loại bánh giầy của người miền núi thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than tương tự cách người Nhật nướng bánh giầy mochi. Canh (súp) zōni (雑煮) là tên gọi của món canh mà người Nhật thường ăn vào ngày đầu năm mới. Nguyên liệu để nấu món canh này khác nhau tùy theo từng vùng. Ngay cả trong cùng một vùng thì cách nấu của mỗi gia đình nhiều khi cũng khác nhau. Dù vậy, những nguyên liệu có thể nói là không thể thiếu trong món canh này là: bánh giầy mochi không nhân (kirinmochi), đậu phụ, khoai, thịt gà, rau xanh, và các loại rau củ màu sắc khác.

Thư viện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cặp bánh giầy kẹp nửa khoanh giò lụa, Việt Nam
  • Bánh giầy nhân đậu xanh sên đường (bánh giầy nhân ngọt)
  • Bánh giầy ngũ sắc (5 màu) trong cộng đồng dân tộc thiểu số Việt Nam.
  • Bánh giầy vừa được nướng
  • Canh bánh giầy zoni của Nhật Bản
  • Một hộp bánh giầy kashiwa mochi

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bánh chưng
  • Mochi
    Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bánh giầy.
    Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mochi.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • ^ “"Bánh giầy" hay "bánh dầy"?”. Tuổi Trẻ Online. 16 tháng 4 năm 2008. Tuy nhiên, theo qui tắc chính tả tiếng Việt hiện tại, viết "bánh giầy" là chuẩn xác nhất.
  • ^ “Lỗi chính tả tại lễ hội Đền Hùng”. VnExpress. 20 tháng 4 năm 2010. GS.TS Nguyễn Đức Tồn, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học [Việt Nam] cho biết, chỉ duy nhất cách viết "bánh chưng", "bánh giầy" là đúng, không có biến thể hay cách viết tương tự. Trần Quốc Vượng, Triết lý bánh chưng - bánh giầy. Trích dẫn: "Bánh chưng tròn dài tượng Dương vật, như cái chày, cái nõ. Bánh dầy tròn dẹt tựa Âm vật, như cái cối, cái nường."

Bánh chưng bánh dày là thể loại truyện gì?

Truyền thuyết "Bánh chưng, bánh giầy" là truyện kể vừa về sự sáng tạo được hai thứ bánh đơn giản mà ý nghĩa sâu sắc, vừa gợi nhắc các dấu tích xưa còn lưu lại đến "ngày nay" đó chính là làm bánh chưng, bánh giày dâng cúng Trời đất và tổ tiên vào mỗi dịp lễ Tết.nullSoạn bài Bánh chưng, bánh giày hay và chi tiết nhất Ngữ văn lớp 6luatminhkhue.vn › soan-bai-banh-chung-banh-giaynull

Tại sao dân ta đứng bánh dày và bánh chưng để cúng tổ tiên?

Thể hiện cho vũ trụ, nhân sinh. Trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt ta, bánh giầy tượng trưng cho âm, bánh chưng đại diện cho dương. Trên mâm cúng ngày lễ, bánh giầy dành cho mẹ Tiên, bánh chưng dành cho cha Rồng - những nhân vật truyền thuyết đã tạo nên dân tộc Lạc Việt sau này.nullNguồn gốc, ý nghĩa của bánh chưng bánh giầy và bánh tét trong ngày Tếtwww.dienmayxanh.com › vao-bep › nguon-goc-y-nghia-cua-banh-chung-...null

Bánh chưng bánh dày từ đầu?

Truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày” xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua nhất sẽ được nhà vua nhường ngôi.nullPhong tục gói bánh chưng ngày Tếtdangcongsan.vn › anh › phong-tuc-goi-banh-chung-ngay-tet-574537null

Bánh chưng bánh dày vào thời vua Hùng thứ mấy?

Sự tích bánh chưng bánh giầy Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó về truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6.nullBánh chưng – Wikipedia tiếng Việtvi.wikipedia.org › wiki › Bánh_chưngnull

Chủ đề