Bảo tồn di sản văn hóa angkor tiểu luận năm 2024

Năm 1992, Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc đã công nhận quần thể Angkor là Di sản văn hóa thế giới.

Angkor là một trong những địa điểm khảo cổ quan trọng nhất ở Đông Nam Á. Trải dài trên khoảng 400 km2, bao gồm cả diện tích rừng Angkor Park. Nơi đây chứa đựng nhiều dấu tích tráng lệ của thủ đô qua các thời Đế quốc Khmer khác nhau,theo lịch sử ghi lại là từ thứ 9 đến thế kỷ 15. Quần thể Angkor bao gồm các ngôi đền nổi tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom, đền Bayon với vô số đồ trang trí điêu khắc của nó.

Vào đầu thế kỷ thứ 9, hai quốc gia bao gồm lãnh thổ của Campuchia và Jayavarman II (một vị vua Khmer) - người đặt nền tảng của Đế quốc Khmer đã xây dựng nên và thiết lập nên Yashodapura - thủ đô của Đế quốc Khmer kể từ thế kỷ thứ 9 cho đến thế kỷ 15. Sau này Yashodapura được đổi tên thành Angkor.

Angkor trong tiếng Khmer cổ có nghĩa là kinh đô hay thành phố huyền diệu. Những di tích, đền đài nằm trong khu vực Siem Reap ngày nay là những công trình còn sót lại của kinh đô Angkor một thời. Những công trình này biểu hiện rõ nét một nền văn hóa, kiến trúc của người Khmer cổ. Vào thời kỳ đỉnh cao của văn minh Angkor thì khu vực thủ đô này có dân số khoảng 1 triệu người. Các vị vua Khmer trải qua nhiều triều đại đã xây dựng nên những công trình thủy lợi và đền đài vĩ đại trong đó điển hình là đền Angkor Wat.

Khu vực Đông Nam Á đã có dân cư sinh sống từ thời kỳ đồ đá nhưng phải đến khi nền văn minh Angkor thực sự hình thành từ thế kỷ thứ I sau công nguyên, cuộc sống nơi đây mới phát triển. Ngày càng có nhiều các thương nhân từ Ấn Độ và Trung quốc tìm đến đây để trao đổi hàng hóa, buôn bán. Những nhà truyền đạo người Ấn Độ cũng theo những thuyền buôn sang đây truyền bá văn hóa, tôn giáo gồm cả đạo Hindu và đạo Phật. Chính vì thế văn hóa Angkor có rất nhiều ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.

Quần thể Angkor chịu sự ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer cổ với một lối kiến trúc đặc sắc, nổi bật các giá trị nghệ thuật Khmer. Quần thể Angkor đóng một vai trò quan trong trong quá trình tiến hóa đặc biệt của nó và có sức ảnh hưởng lớn đến các kiến trúc khác của Campuchia. Một yếu tố vô cùng quan trọng khác của Angkor là hệ thống thủy lợi được xây dựng qua nhiều triều đại. Hệ thống thủy lợi của khu vực đều dựa vào các hồ chứa lớn. Các hồ chứa này không chỉ giúp cho sinh hoạt của người dân trong khu vực mà còn giúp phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế của thủ đô Angkor.

Kiến trúc Khmer phát triển phần lớn từ của tiểu lục địa Ấn Độ, từ cái gốc đó nó nhanh chóng trở nên khác biệt rõ ràng với những đặc điểm riêng biệt khi kết hợp với văn hóa các nước. Kết quả là một chân trời nghệ thuật mới đã hình thành trong kiến ​​trúc phương Đông.

Phế tích của Angkor nằm giữa rừng và vùng đất canh tác nông nghiệp về phía bắc của Biển Hồ (Tonle Sap) và phía nam của đồi Kulen, gần thành phố Xiêm Riệp (Siem Reap) ngày nay (13°24'N, 103°51'E). Quần thể Angkor có đến trên 1000 ngôi đền với kích cỡ và hình dáng khác nhau mang đậm phong cách kiến trúc Khmer.

Sau thế kỷ thứ 13, Angkor liên tiếp hứng chịu các cuộc xâm lăng của người Thái. Sau 7 tháng liên tiếp bị vây hãm ở Angkor, vị vua trị vì lúc bấy giờ là Ponjhea Yat đã quyết định cho dời đo từ Angkor về Phnom Penh. Việc dời đô này đánh dấu một bước ngoặt đó là chuyển từ nên kinh tế nông nghiệp sang kinh tế thương mại bởi vì Phnom Penh là nơi hợp lưu giữa các con sông. Khi thủ đô được chuyển đi, các đền đài tại Angkor vẫn tiếp tục hoạt động nhưng chức năng thì thay đổi dần theo thời gian. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, một số nhà thám hiểm và nhà truyền giáo phương Tây đã đến Angkor và phát hiện ra vẻ đẹp cũng như những giá trị kiến trúc lịch sử của khu vực quần thể này.

Năm 2007, các nhà nghiên cứu quốc tế đã sử dụng công nghệ chụp ảnh vệ tinh và các kỹ thuật hiện đại khác để chụp lại quần thể Angkor. Sau đó kết luận rằng Angkor là thành phố thuộc thời kỳ tiền công nghiệp lớn nhất thế giới với diện tích 1150 dặm vuông. Thành phố cạnh tranh tiêu chí này gần nhất với Angkor là thành phố Tikal của văn hóa Maya ở Guatemala có tổng diện tích khoảng 50 km2.

Kajian ini bertujuan mengetahui kontribusi tradisi Erau sebagai sumber pembelajaran kontekstual IPS di SMP. Metode yang digunakan dalam kajian ini adalah dengan analisis pustaka (Library Research). Hasil kajian ini menunjukkan bahwa tradisi Erau memiliki kontribusi terhadap aspek-aspek pembelajaran dan kajian bidang materi IPS. Aspek-aspek pembelajaran IPS yang bersentuhan dengan tradisi Erau meliputi: aspek kognitif, aspek afektif, dan aspek psikomotor. Sementara itu, kajian materi yang dapat disisipi yaitu pada bidang : sejarah, sosiologi, geografi, dan ekonomi.

Hiện nay, tại chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang) còn lưu giữ được tấm bia cổ duy nhất thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có niên đại từ thời nhà Lý. Nội dung văn bia chép về dòng họ Hà và những đóng góp của dòng họ này đối với vùng đất Vị Long nói riêng và đất nước nói chung ở thế kỷ XI - XII. Trong đó phải kể đến công lao to lớn của nhân vật lịch sử Hà Di Khánh.

Vấn đề có tính thời sự và cấp bách đặt ra trong tất cả các cuộc hội thảo gần đây về đổi căn bản toàn diện quá trình dạy học, đó là tiêu chí đánh giá học sinh khi chuyển từ hướng tiếp cận nội dung sang hướng tiếp cận năng lực; chuyển từ quá trình dạy học sang quá trình tự học; tự giáo dục như thế nào. Rất nhiều câu hỏi được đạt ra từ các cấp độ: Người quản lý; người trực tiếp giảng dạy; người nghiên cứu giáo dục; phụ huynh và người học. Với các yêu cầu bức thiết hiện nay, xu hướng đánh giá cần phát huy tốt 3 chức năng quan trọng đó là : chức năng điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy học; chức năng phát triển và chức năng giáo dục. Muốn vậy cần tập trung vào hai phương diện: Đánh giá về phẩm chất và đánh giá về năng lực thông qua việc đánh giá sản phẩm của các hoạt động hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng theo chuẩn của từng môn học và các hoạt động giáo dục cụ thể.

Preparing soft skills for students has been being a matter of great concern to both society and the education industry. Soft skills are an essential factor for the success and happiness of each individual. Many decades ago, the weakness of soft skills of Vietnamese students have been warned by educational organizations, businesses and domestic and foreign experts. Although knowledge that is considered as a necessary condition during the learning process; it is still not a sufficient condition for students who want to get a desired job. Nowadays, soft skills training activities are quite popular in almost universities and it is one of requirements for student’s graduation. However, these training activities are different in each university. In this study, from the practical experience in training soft skills of other universities, the authors recommend some basic solutions for integrating soft skills into main subjects in the specialized knowledge teaching process.

Tế bào gốc trung mô (TBGTM) được nghiên cứu rộng rãi để điều trị nhiều mặt bệnh khác nhau như bệnh vật ghép chống chủ, các bệnh tự miễn dịch, viêm xương khớp, bệnh thần kinh và tim mạch. Các nghiên cứu được mở rộng kèm theo nhu cầu sản xuất số lượng lớn tế bào này theo các tiêu chí lâm sàng nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều thách thức trong việc sử dụng tế bào gốc vào điều trị thường quy. Trong đó phải kể đến sự thiếu tiêu chuẩn hoá điều kiện phân lập và nuôi cấy tăng sinh, cũng như các nguồn mô đa dạng được sử dụng để tạo nguồn tế bào gốc. Điều này có ý nghĩa rất lớn, do mỗi sản phẩm tế bào được sử dụng trong mỗi thử nghiệm lâm sàng có thể khác nhau về đặc tính và hiệu lực, dẫn đến sự không đồng nhất về hiệu quả điều trị được mô tả trong y văn. Dựa vào nhu cầu ngày càng cao của ứng dụng tế bào gốc trong điều trị và thẩm mỹ, chúng tôi đã phát triển một công nghệ sản xuất tế bào tiêu chuẩn hóa bằng cách sử dụng môi trường thương mại không chứa yếu tố động vật và không chứa hu...

Năng lực giải quyết vấn đề trong các tương tác xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, nó giúp con người giải quyết tốt các tình huống xảy ra đối với bản thân, giữ thăng bằng tâm lí, thiết lập mối quan hệ xã hội và có thể thích ứng trong môi trường mới lạ. Trong khuôn khổ của bài báo này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu năng lực duy trì, thiết lập các quan hệ xã hội và năng lực giải quyết vấn đề trong các tương tác xã hội của sinh viên sư phạm. Kết quả nghiên cứu cho thấy hai năng lực trên của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Quảng Trị còn thấp, đặc biệt là năng lực thiết lập, duy trì các quan hệ xã hội. Phải chăng điểm trung bình cao hay thấp cũng chính là điểm mạnh, điểm yếu của sinh viên về các năng lực giải quyết vấn đề trong các tương tác xã hội. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao các năng lực trên cho sinh viên trường CĐSP Quảng Trị.

ABSTRAK Tinja, Yasintus. 2017. Pengembangan Bahan Ajar Tematik Berbasis Kearifan Lokal Pada Sub Tema Bentuk Bentuk Kerukunan Siswa Kelas V SDI Kakor Manggarai Barat NTT. Tesis, Program Studi S2 Pendidikan Dasar, Pascasarjana, Universitas Negeri Malang. Pembimbing (1) Siti Malikhah Towaf, M.A,Ph.D (2) Prof. Dr. Hariyono, M.Pd Kata Kunci: Pengembangan, bahan ajar, tematik, kearifan lokal Pembelajaran tematik di sekolah dasar dilaksanakan dengan mengintegrasikan berbagai muatan pembelajaran ke dalam satu tema tertentu. Tema yang dipilih dikaitkan dengan muatan pembelajaran dan dekat dengan kehidupan siswa. Dengan memilih tema-tema yang dekat dengan kehidupan siswa pembelajaran yang dilaksanakan diharapkan lebih bersifat kontekstual. Kontekstualisasi pembelajaran dilksanakan dengan menghadirkan kondisi nyata yang ada disekitar siswa. Salah satu bentuk kontekstualisasi pembelajaran adalah dengan mengaitkan kearifan lokal yang dimiliki dengan materi pembelajaran yang diajarkan. Berdasarka...

Chủ đề