Bờ xôi ruộng mật chính là hồn ViệtNước ta là một nước nông nghiệp lấy sản xuất lúa nước làm chính. Có tới 72,88% cư dân đang sống ở nông thôn (2006), làm ra 39,65 triệu tấn lương thực lấy hạt, trong đó có 35,83 triệu tấn thóc và 3,82 triệu tấn ngô (2006). Trong nông nghiệp, trồng trọt chiếm tới 73,5%, chăn nuôi chiếm 27,7%, còn dịch vụ chỉ chiếm có 1,8%. Trong thu nhập quốc nội (GDP) thì nông lâm thủy sản còn tới 20,36%, công nghiệp, xây dựng là 41,56%, còn dịch vụ là 38,08 %. Hồn Việt chính vẫn là nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, manh mún… Tôi cho rằng dọc miền Trung và vùng trung du Bắc Bộ, nơi đất đai khô cằn, bạc màu hoàn toàn có thể xây dựng thành các khu công nghiệp, khu chế xuất rộng lớn. Còn hai châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long, nơi được phù sa bồi đắp hàng nghìn năm qua nhất thiết không được đụng vào một cách tùy tiện như lâu nay. Tại đây phải suy nghĩ xem nên trồng cây gì, nuôi con gì để thỏa mãn vừa đủ nhu cầu trong nước (cho hiện nay và cho tương lai), để thỏa mãn nguyên liệu cho một ngành Công nghệ sinh học cân phát triển nhanh chóng và còn cân nghiên cứu kỹ xem nên làm cái gì để xuất khẩu được nhiều tiền nhất, có thể gấp hàng chục, hàng trăm lân so với lúa gạo. Đừng nên quên con số bình quân 1 ha ở Hà Lan thu được khoảng 4 triệu USD từ xuất khẩu ở nước ta 1 ha ở đồng bằng sông Hồng chỉ có thể thu được bình quân trên dưới 30 triệu đồng (khoảng 1875 USD!). Năm 2008 là năm nước ta thu hút được nhiều nguồn đầu tư rất lớn, nếu chúng ta không chuẩn bị trước thì vài chục tỷ USD đó sẽ lấn chiếm hết vào các Bờ xôi, Ruộng mật, đó là một nguy cơ đau đớn lắm. Nông dân mất đất canh tác - cơ cực vì giá đền bù rẻ mạt Nông dân mất đất sẽ vô cùng cơ cực. Theo thống kê hiện nay, trung bình mỗi héc-ta đất bị thu hồi ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp. Vùng đồng bằng sông Hồng có số hộ bị ảnh hưởng do thu hồi đất lớn nhất: khoảng 300 nghìn hộ, Đông Nam Bộ: khoảng 108 nghìn hộ. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi hầu hết là vùng đất tốt, có điều kiện thuận lợi cho canh tác, trong khi các diện tích đất đền bù là đất xấu, cách xa khu dân cư và điều kiện hạ tâng phục vụ sản xuất còn nhiều khó khăn. Việc thực hiện định giá đèn bù đất cũng như tài sản trên đất chưa phù hợp với giá thị rường và khu tái định cư. Một số địa phương chạy theo phong trào, phát triển công nghiệp, dịch vụ bằng mọi giá mà chưa chú ý đúng mức đến tác động đối với người dân. Hiện tượng quy hoạch treo, quy hoạch tràn lan là khá phổ biến. Thời gian triển khai công tác thu hồi đất kéo dài nhiều năm gây bất lợi đến tâm lý cũng như việc ổn định đời sống và việc làm của các hộ dân nằm trong diện bị thu hồi đất. Các yếu tố trượt giá hau như chưa được tính đến trong định giá đền bù cho người dân. Công tác tuyển dụng lao động tại các địa phương có đất bị thu hồi chưa có hiệu quả. Lao động nông nghiệp nhìn chung không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Chỉ mới có một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng vài %) chuyển được sang nghề mới và tìm được việc làm ổn định. Việc làm và thu nhập của các hộ sổng chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là đối tượng bị tác động lớn nhất sau khi thu hồi đất và gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm mới. Trong quá trình bồi thường, hỗ trợ tái định cư, nhiều nơi lại thiên về bảo vệ quyền lợi của nhà đâu tư mà chưa cân đối quyên lợi với người dân bị thu hỏi đất. Về chuyện đền bù đất đai, tôi có dịp hỏi thăm nông dân Trung Quốc và được biết khi thu hôi đất nông dân sẽ được tặng 1 căn hộ, được cấp một số tiền để kinh doanh tạm trong các căn nhà thô sơ trong khu công nghiệp và quan trọng hơn là được coi là cổ phần góp vào nhà máy, được chia lãi hàng năm, số trẻ tuổi được cho đi học nghề để trở thành công nhân ở ngay các nhà máy đó. Điều này khác hẳn với kiểu đền bù hàng núi tiền mà vẫn không hề đảm bảo gì cho cuộc sống của người nông dân bị thu hồi đất, nhất là cho con cháu của họ, nếu không chuyển được lớp trẻ sang lĩnh vực công nghiệp hay dịch vụ. Còn một chuyện rất đau đâu nữa là không có lý gì năm nào chúng ta cũng bị bọ rầy, bị nấm đạo ôn, bị vàng lùn, vàng xoắn lá, rồi thì cúm gia cầm, lợn tai xanh, trâu bò lở mồm long móng, tôm nhiễm virus... Tôi không tin trên thế giới không có giống lúa nào kháng bọ rầy, kháng nấm đạo ôn, không đủ văcxin phòng chống có hiệu quả bệnh tật cho gia súc gia cầm. Điều này đặt ra câu hỏi, các cơ quan nghiên cứu nông nghiệp của ta hiện đã được đâu tư tập trung chưa, đâu tư đủ tam chưa, đã được trang bị các thiết bị, máy móc hiện đại chưa, đã có sự cộng tác quốc tế có hiệu quả chưa mà để cho các vấn đề bức xúc cứ kéo dài mãi như vậy? Tôi cho rằng việc đầu tư của Nhà nước cho khoa học vừa chưa đủ tâm, vừa dàn trải, chưa tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm. Theo tôi, các lĩnh vực mũi nhọn cần phải xây dựng được thành các viện nghiên cứu đủ tâm, và tốt nhất là nên kết hợp trong các trường Đại học như cách làm phổ biến trên thế giới (để tận dụng tối đa thiết bị khoa học và lực lượng trí thức). Sau đó, yêu cầu các Viện này phải tháo gỡ bằng được các vấn đề cần nhanh chóng khắc phục. Với các ngành chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, chế biến sau thu hoạch... cũng cần có cách làm tương tự như vậy. Để đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020, tôi thiết nghĩ ngay từ bây giờ, chúng ta phải có một cuộc cách mạng thật sự trong tư duy và trong hành động. Đặc biệt, cần có sự cân nhắc sáng suốt đối với từng chủ trương lớn và phải có các biện pháp quyết liệt xuất phát từ những người lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, từ trung ương đến địa phương. Đừng quên nông nghiệp, nhất là các vùng đất bờ xôi, ruộng mật chính là một phần quan trọng của hồn Việt. Nguồn:Tạp chí Hồn Việt |