Xây dựng căn cứ địa cách mạng Tuyên Quang theo tư tưởng Hồ Chí MinhThứ Hai, ngày 8 tháng 2 năm 2021 - 15:01 Đã xem: 2978
Căn cứ địa cách mạng là vùng được chọn để làm bàn đạp xây dựng và phát triển phong trào cách mạng rộng ra các vùng khác. Căn cứ địa cách mạng phải có khả năng tạo ra được những cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội và địa lý thuận lợi cho đấu tranh cách mạng. Lán Nà Nưa (Tân Trào) - Nơi Bác Hồ ở, làm việc từ cuối tháng 5 đến ngày 22/8/1945 để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành chính quyền trong cả nước. Nguồn ảnh: Báo Tuyên Quang. Vấn đề xây dựng căn cứ địa và lựa chọn địa điểm xây dựng căn cứ địa là vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định đến sự thành bại của các bên tham chiến. Với ý nghĩa đó, việc xây dựng căn cứ địa cách mạng trong điều kiện của một cuộc kháng chiến vệ quốc và chiến tranh giải phóng như ở Việt Nam càng trở nên đặc biệt quan trọng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa cách mạng hình thành và phát triển trong suốt hành trình tìm đường cứu nước và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trải nghiệm phong trào cách mạng ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Công tác Quân sự của Đảng trong nhân dân", thể hiện tư tưởng của Người về xây dựng căn cứ địa cách mạng “Một cuộc cách mạng muốn thắng lợi thì phải giải quyết tốt những vấn đề xây dựng căn cứ địa cách mạng, tổ chức các đội quan du kích nông dân và chiến tranh du kích”. Đây chính là những tư tưởng quan trọng và đúng đắn của Người về xây dựng căn cứ địa, bao gồm việc chọn chỗ đứng chân, dự báo tình thế cách mạng trực tiếp và tập trung xây dựng căn cứ địa, trung tâm của căn cứ địa. Sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài tìm đường cứu nước, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước và quyết định chọn Cao Bằng làm nơi xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước. Người đã trực tiếp chỉ đạo quá trình xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giác ngộ nhân dân đi theo cách mạng, phong trào cách mạng ở Cao Bằng phát triển từng bước vững chắc, là trung tâm căn cứ địa của cả nước trong thời kỳ đầu của cách mạng. Bước sang năm 1945, phong trào cách mạng phát triển mạnh, Khu giải phóng ngày càng được mở rộng, thời cơ giành chính quyền đang đến gần. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn ngay trong vùng Cao - Bắc - Lạng hoặc Tuyên Quang, Thái Nguyên một địa điểm thuận lợi làm trung tâm để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Tại Tuyên Quang, sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), cuộc khởi nghĩa ngày 10/3/1945 tại Thanh La (Sơn Dương, Tuyên Quang) thắng lợi, Châu Tự Do được thành lập, giải phóng toàn huyện Sơn Dương. Đến ngày 22/5/1945 hầu hết các địa phương trong tỉnh được giải phóng và mở rộng ra các vùng lân cận, tạo thành vùng giải phóng rộng lớn. Tuyên Quang là tỉnh hội tụ đủ các điều kiện về “địa lợi, nhân hòa” để Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở, làm việc và chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Và Tân Trào - Tuyên Quang đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Song Hào lựa chọn giữ vai trò làm trung tâm của Khu giải phóng, nơi đặt trụ sở chỉ huy - Cơ quan đầu não lãnh đạo cách mạng, điểm trung tâm hội tụ, lan tỏa, kết nối và lãnh đạo phong trào cách mạng trong phạm vi cả nước. Như vậy, trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, căn cứ địa Việt Bắc mà trung tâm là Tuyên Quang - Thủ đô Khu giải phóng là cái nôi của cách mạng cả nước, nơi ở, hoạt động của lãnh tụ Hồ Chí Minh và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, nơi ra đời của Mặt trận Việt Minh, của các lực lượng vũ trang tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, là căn cứ địa kháng Nhật lớn nhất cả nước; là "cái mầm" của nước Việt Nam mới, có tác dụng hiệu triệu, cổ vũ phong trào cách mạng cả nước; là nơi mở ra những khả năng để Đảng, Hồ Chí Minh thực hiện mối liên hệ quốc tế trong cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội; nơi họp Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân Tân Trào quyết định Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thắng lợi trong cả nước. Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp của dân tộc ta bùng nổ. Trong hoàn cảnh địch mạnh, ta yếu, đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng được những căn cứ địa cách mạng- An toàn khu (ATK) vững chắc, an toàn, làm nơi đứng chân của Đảng và chính quyền, nhân dân, các lực lượng cách mạng để tiến hành cuộc kháng chiến. Trong các tỉnh Việt Bắc, một lần nữa Trung ương Đảng, Bác Hồ quyết định chọn Tuyên Quang làm căn cứ địa trung tâm (Thủ đô kháng chiến), An toàn khu của Trung ương, bởi Tuyên Quang đáp ứng được những yêu cầu cơ bản, quyết định theo tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ và Trung ương Đảng. Đó là: Tuyên Quang có vị trí chiến lược, là nơi “tiến khã dĩ công, thoái khã dĩ thủ”[1], cơ động, vững chắc trong chiến tranh giải phóng lẫn chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; nhân dân Tuyên Quang có tinh thần yêu nước sâu sắc, đoàn kết trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng như trong lao động, sản xuất xây dựng quê hương; là nơi có dự nguồn lương thực, thực phẩm đủ bảo đảm cho các cơ quan đầu não cách mạng trong một thời gian nhất định khi lâm thời bị địch cắt đứt các nguồn triếp tế; và điều kiện tiên quyết là Tuyên Quang có phong trào cách mạng và cơ sở chính trị vững chắc, từng là Thủ đô Khu giải phóng, trung tâm căn cứ địa của cách mạng cả nước. Do đó, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với tầm nhìn chiến lược sáng suốt, trước khi về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân công đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ chủ chốt ở lại Tân Trào một thời gian để tiếp tục xây dựng củng cố căn cứ địa vững chắc về mọi mặt và dự báo “biết đâu chúng ta còn trở lại đây nhờ cậy đồng bào một lần nữa”. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, ngay từ cuối tháng 10 năm 1946 đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Nhiều địa điểm thuộc các huyện: Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính Phủ. Đầu năm 1947, đợt tổng di chuyển các cơ quan, cơ sở hậu cần, kinh tế, quân sự của Trung ương lên Việt Bắc, Tuyên Quang hoàn thành. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở, làm việc tại gần 20 địa điểm khác nhau trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang với tổng thời gian gần 6 năm. Cùng với Bác Hồ, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng 13/14 bộ của Chính phủ và 65 ngành, đoàn thể, cơ quan, cơ sở kinh tế, quân sự… của Trung ương cũng đặt nơi ở, làm việc tại 111 điểm trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Suốt một dải từ huyện Sơn Dương, Yên Sơn, thành phố Tuyên Quang, Chiêm Hóa đến Na Hang với thế núi, sông hiểm yếu trở thành khu căn cứ tuyệt đối an toàn của Trung ương trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược[2]. Tại Tuyên Quang - Thủ đô kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng tổ chức thành công nhiều đại hội, hội nghị, phiên họp quan trọng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận... quyết định những quyết sách lớn để đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc đi đến thắng lợi. Tiêu biểu như: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951, tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hoá). Đại hội đã hoàn chỉnh và bổ sung đường lối cách mạng, quyết định những chính sách, biện pháp đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi; Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương trực tiếp chỉ đạo cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, tổ chức Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II quyết định kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình. Tuyên Quang cũng là nơi diễn ra những hoạt động ngoại giao quan trọng của Bác Hồ, như các cuộc đón tiếp, làm việc với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Lào yêu nước Ítxala, đoàn cố vấn Trung Quốc, đại diện các Đảng Cộng sản: Pháp, Thái Lan, Liên Xô... Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung ương Đảng, Bác Hồ tiếp tục có những quyết sách đúng đắn về xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh, trong đó Tuyên Quang đảm đương xứ mệnh là tỉnh hậu phương vững chắc, chi viện sức người, sức của cùng cả nước làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, việc xây dựng căn cứ địa cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Ðảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang luôn phát huy truyền thống quê hương cách mạng, khắc phục khó khăn, nêu cao quyết tâm chính trị, giành nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Giai đoạn 2015-2020, kinh tế của tỉnh duy trì tốc độ tăng trưởng khá, bình quân đạt 6,45%/năm; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; giáo dục - đào tạo tiếp tục được củng cố ở tất cả các bậc học và ngành nghề đào tạo. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm. An sinh xã hội được bảo đảm; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, trên 3%/năm; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện và nâng cao. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng các tiềm lực quân sự, quốc phòng, lực lượng vũ trang và khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc; công tác xây dựng Đảng có sự chuyển biến tích cực, toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Phát huy truyền thống quê hương cách mạng - Thủ đô Khu giải phóng - Thủ đô kháng chiến và thực hiện trách nhiệm với lịch sử, tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, vươn lên về mọi mặt để góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, khai thác mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, nỗ lực phấn đấu đưa Tuyên Quang phát triển khá, toàn diện, bền vững trong khu vực miền núi phía Bắc. Đào Việt Dũng (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy) [1] Tiến có thể đánh, lui có thể giữ [2] Ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 2287/QĐ-TTg công nhận xã An toàn khu, vùng An toàn khu tỉnh Tuyên Quang. Theo đó, Thủ tướng công nhận 48 đơn vị hành chính cấp xã thuộc các huyện, thành phố thuộc tỉnh Tuyên Quang là các xã An toàn khu của Trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tân Trào, nơi ghi dấu những mốc son lịch sử trọng đại của dân tộcCập nhật lúc: 04:39, 19/08/2021 (GMT+7) Khu căn cứ cách mạng Tân Trào từng là “Thủ đô Khu giải phóng”, “Trung tâm Thủ đô Kháng chiến” trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng rất anh dũng của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược. Với những giá trị và ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng, khu di tích đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định xếp hạng: Di tích quốc gia đặc biệt vào tháng 5/2012.
Nằm ở phía Đông Bắc của huyện Sơn Dương, phía Đông huyện Yên Sơn thuộc tỉnh Tuyên Quang, Tân Trào là tên gọi chung của cả khu căn cứ cách mạng thời tiền khởi nghĩa. Đây là một vùng đất rộng lớn có địa hình đồi núi đa dạng, trùng điệp và khá hiểm trở. Sinh sống lâu đời ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số: Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Dìu, Sán Chí sống quần tụ bên nhau trong các thung lũng, ven sông, suối và trên các triền núi
Khu căn cứ có tổng diện tích tự nhiên trên 530 km2. Xung quanh khu căn cứ có nhiều dãy núi cao bao bọc và được che phủ dưới tán rừng già, rậm rạp, lại có sông, suối, chảy qua. Trên núi có nhiều hang, động có sức chứa vài chục đến vài trăm người, rất thuận lợi cho việc chiến tranh du kích, xây dựng phát triển lực lượng và cất giấu vũ khí, lương thực, thực phẩm, nhằm bảo toàn lực lượng, đảm bảo cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến. Bác Hồ và Trung ương Đảng đã sớm nhìn thấy thế mạnh “nhân hòa, địa lợi” ở đây nên đã chọn vùng này làm căn cứ địa chủ yếu trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.(1)
* * *
Khu căn cứ cách mạng Tân Trào là nơi có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam. Là căn cứ địa cách mạng trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945. Đây cũng là địa bàn chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1947 - 1954), nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận ở, làm việc trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngược dòng lịch sử về lại nơi đây trong những ngày đầu tháng 5 năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã quyết định những vấn đề lớn liên quan đến vận mệnh của dân tộc Việt Nam và có tác động trực tiếp đến phong trào cách mạng ở Việt Bắc. Đặc biệt là khu cách mạng Tân Trào đã trở thành căn cứ địa vững chắc, đây cũng chính là nhân tố quyết định để Bác Hồ dời căn cứ Pác Bó ề Tân Trào (Tuyên Quang) tiếp tục chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 4/5/1945, Bác Hồ bắt đầu cuộc hành trình từ Pác Bó tới trưa ngày 21/5/1945 đến Tân Trào, Bác dừng chân nghỉ tại đình Hồng Thái, rồi vào ở tạm với gia đình ông Nguyễn Tiến Sự (Chủ nhiệm Việt Minh của làng Kim Long) tại làng Kim Long. Sau đó, để đảm bảo an toàn, bí mật Bác chuyển lên ở và làm việc tại một căn lán nhỏ trên rừng Nà Lừa (lán Nà Lừa).
Ngày 4/6/1945, chấp hành chỉ thị của Bác và Tổng bộ Việt Minh, Hội nghị cán bộ toàn Khu được tổ chức. Hội nghị quyết định thành lập Khu giải phóng, gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Thống nhất các lực lượng vũ trang thành quân giải phóng, đề ra 10 chính sách lớn của Việt Minh, Tân Trào là Thủ đô lâm thời khu giải phóng. Ngày 13/8/1945, Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng khai mạc tại một căn lán làm tạm trên rừng Nà Lừa với gần 30 đại biểu, đại diện cho ba miền Bắc - Trung - Nam, các chiến khu. Sau khi phân tích, bàn bạc, Hội nghị đã đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, cơ hội tốt cho ta giành chính quyền, độc lập đã đến...” và quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra bản Quân lệnh số I, hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Tại cây đa Tân Trào, chiều ngày 16/8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa đọc Bản Quân lệnh số I làm lễ xuất quân Nam tiến, đây là lễ xuất quân công khai đầu tiên của quân giải phóng Việt Nam (Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân). Cùng ngày, Quốc dân Đại hội cũng được tổ chức, khai mạc tại đình Tân Trào, thông qua mười chính sách lớn của Việt Minh, bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; đồng chí Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch. Quy định Quốc ca, Quốc kỳ, lấy sao vàng năm cánh trên nền cờ đỏ làm lá cờ chung của cả nước. Từ đây lệnh tổng khởi nghĩa được truyền đi khắp nơi trong cả nước, tỉnh Tuyên Quang là địa phương khởi nghĩa vũ trang và được giải phóng sớm nhất trong cả nước (ngày 17/ 8/1945).
Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà giành được độc lập, hòa bình chưa được bao lâu, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 19/12/946, đáp lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam lại nhất tề đứng lên đánh giặc, với ý chí "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".
Đầu năm 1947, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các bộ, ban, ngành dời Thủ đô Hà Nội trở lại Việt Bắc để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu căn cứ cách mạng Tân Trào một lần nữa trở thành căn cứ địa chủ yếu của cả nước, được chọn làm “Trung tâm Thủ đô kháng chiến” lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây cũng là nơi đặt trụ sở làm việc của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương.(2)
Khu căn cứ cách mạng Tân Trào “Thủ đô Khu giải phóng, Trung tâm Thủ đô Kháng chiến”, đã được công nhận là Khu Di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào với 177 di tích (18 di tích, cụm di tích là Di tích lịch sử quốc gia, và 30 Di tích lịch sử cấp tỉnh). Nơi đây có những địa danh nổi tiếng đã đi vào lịch sử Việt Nam như: lán Nà Lừa, cây đa Tân Trào, đình Tân Trào, đình Hồng Thái, lán Hang Bòng, Đồng Man - Lũng Tẩu, Khấu Lấu, Vực Hồ, Thác Dẫng, ATK Kim Quan,...
Khu Di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào hiện nay do Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang trực tiếp quản lý, bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị. Nơi đây là một trong những địa chỉ đỏ, giáo dục truyền thống cách mạng và điểm du lịch văn hóa, sinh thái đầy ấn tượng của vùng Việt Bắc. Du khách khi tới đây, sau khi dâng hoa tại lán Nà Lừa, nơi Bác Hồ đã từng sống và làm việc (từ tháng 6/1945 đến tháng 8/1945), sẽ được các cô thuyết minh viên “sơn nữ” duyên dáng trong trang phục truyền thống dân tộc giới thiệu và hướng dẫn tham quan các điểm di tích lịch sử cách mạng. Theo ông Lý Mạnh Thắng - Phó Giám đốc Bảo tàng Tuyên Quang, hàng năm khu di tích đón trên 80.000 lượt khách đến tham quan. Đặc biệt, trong đó có nhiều đoàn là đại biểu Trung ương Đảng, Chính phủ, các đoàn khách ngoại giao quốc tế, các tỉnh, thành trong nước đến tham quan. Ngoài hoạt động đón tiếp phục vụ khách tham quan, ở đây còn tổ chức một số hoạt động sự kiện, giáo dục truyền thống như kết nạp Đảng, Đoàn, Đội cho các cơ quan, trường học trong tỉnh. Tổ chức các tua du lịch trải nghiệm như đi mảng (bè) trên sông, suối, tham quan làng bản, thưởng thức ẩm thực dân tộc, hát then,... khi khách có nhu cầu.
(1), (2) trong bài có tham khảo tư liệu của đồng nghiệp Bảo tàng Tuyên Quang cung cấp
ĐOÀN BÍCH NGỌ
Chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến(ĐCSVN) - Chuẩn bị địa bàn đứng chân của cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng sớm chỉ đạo xây dựng căn cứ địa kháng chiến, gồm căn cứ địa ở từng địa phương và căn cứ địa cả nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc của Người tại căn cứ địa Việt Bắc (1951) (Ảnh: hochiminh.vn) Việt Bắc được chọn làm căn cứ địa của cả nước, vì có vị thế chiến lược quan trọng, nhân dân theo Đảng, kinh tế tự cấp tự túc. Sau Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Phạm Văn Đồng ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa. Cuối tháng 10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng lên Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Nửa đầu tháng 11-1946, Trung ương Đảng lập Đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách để nghiên cứu kế hoạch di chuyển các cơ quan lãnh đạo và cơ sở vật chất kỹ thuật lên Việt Bắc. Các huyện Định Hoá, Chợ Đồn, Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) và Sơn Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang) được chọn làm nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ tháng 10-1946, nhân dân các dân tộc Việt Bắc, đặc biệt ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên tích cực chuẩn bị xây dựng căn cứ địa kháng chiến, chuẩn bị đón các cơ quan Trung ương, Chính phủ và nhân dân. Từ đầu tháng 12-1946, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, quân đội đã chuyển về các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, đến tháng 3-1947 lên Việt Bắc. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của cuộc kháng chiến cũng được chuyển về các căn cứ địa từ đầu tháng 11-1946. Nhân dân các địa phương ở Việt Bắc có cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, quân đội đóng được huấn luyện quân sự, chỉ đạo việc bố phòng, an ninh. Đồng bào ra sức tham gia kháng chiến, giữ bí mật, thực hiện khẩu hiệu ba không, góp phần bảo đảm tuyệt đối an toàn cho cơ quan đầu não. ------------ Xem thêm tài liệu tham khảo TẠI ĐÂY Nguồn: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, tr.117-119, NXB Chính trị Quốc gia, 2008. |