Vai trò của chủ thể quốc gia trong Quan hệ Quốc tếBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.9 KB, 15 trang ) MỤC LỤC tham gia. Chủ thể QHQT 1.2. Phân loại chủ thể quan hệ quốc tế. 1.2.1: Theo tiêu chí loại hình tổ chức Quốc gia dân tộc Tổ chức đa quốc gia Tổ chức phi quốc gia: NGOs, TNCs, tổ chức phát triển xã hội, phong trào tôn giáo. 1.2.2: Theo tiêu chí sức mạnh Các trung tâm quyền lực: Siêu cường, cường quốc Các chủ thể ngoại vi: Tầm trung, nhỏ, siêu nhỏ 2. Chủ thể phi quốc gia. 2.1: Tổ chức quốc tế. 2.1.1: Khái niệm: Tổ chức quốc tế là thể chế có thẩm quyền xác định, được thành lập trên cơ sở thỏa thuận và nhằm mục đích hợp tác qua biên giới. 2.1.2: Dấu hiệu: Ý chí hợp tác: Được thể hiện trong các văn bản thành lập (tuyên bố chung, hiệp định) Bộ máy thường trực (Ban thư ký, ủy ban thường trực,) giúp duy trì hoạt động thường xuyên. Có tính tự trị và thầm quyền đối với các quyết định của mình (do các thành viên thỏa thuận) Có thành viên từ hai quốc gia trở lên. 2.1.3: Phân loại: Cách 1: Dựa trên lĩnh vực hoạt động chức năng + Tổ chức quốc tế đơn chức năng (Chức năng chuyên môn) hoạt động trong môi trường chuyên môn. + Tổ chức quốc tế đa chức năng (chức năng chung) hoạt động đồng thời trong nhiều lĩnh vực khác nhau Cách 2: Dựa trên địa bàn hoạt động + Tổ chức quốc tế toàn cầu hoạt động trên quy mô toàn cầu + Tổ chức quốc tế khu vực (hay địa phương) hoạt động trên quy mô khu vực hay địa phương nào đó. Liên lục địa (Intercontinental) Khu vực (Regional) Tiểu vùng (Subregional) Cách 3: Dựa trên chế độ thành viên + Tổ chức quốc tế công (public) có thành viên là quốc gia. Trên góc độ quan hệ quốc tế, là tổ chức quốc tế Liên chính phủ (Intergovernmental Organization IGO). VD: UN, WTO, APEC, ASEM, NATO, ASEAN, EU, AU, OAS. + Tổ chức quốc tế tư (private) có thành viên là cá nhân và nhóm. Trên góc độ quan hệ quốc tế là tổ chức quốc tế Phi chính phủ (International Nongovernmental Organization INGO) VD: Red Cross, Human Right, Greenpeace, Plan 2.1.4: Quá trình hình thành và phát triển Các ủy ban song ngòi Châu Âu + Ủy ban TW về thủy vận sông Rhine 1815 + Ủy ban sông Danube 1856 Liên hiệp quốc tế + Liên minh điện tín quốc tế 1865 + Liên minh bưu điện toàn cầu 1874 Phát triển mạnh trong thế kỷ XX IGO INGO 1909 37 176 2006 246 7306 2.2: Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation - TNC) 2.2.1: Khái niệm: Công ty Xuyên quốc gia là những tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra trên địa bàn nhiều quốc gia. Dấu hiệu của TNC + Tổ chức kinh doanh (là loại hình doanh nghiệp có chức năng kinh doanh, mục đích lợi nhuận) + Sở hữu đa quốc gia (vốn thuộc chủ đầu tư từ nhiều nước) + Quốc tế hoá hoạt động kinh doanh (sản xuất, phân phối, quản lý diễn ra trên nhiều nước) 2.2.2: Phân loại: Cách 1:dựa trên mức độ tổ chức và liên kết + Cartel, Syndicat, Trust, Concern, Conglomerate Cách 2 dựa trên nguồn vốn và hoạt động + Công ty Đa quốc gia và Công ty Xuyên quốc gia Cách 3 dựa trên sự tiếp cận thị trường thế giới + Công ty Sắc tộc trung tâm (Ethnocentric Corp.) + Công ty Đa trung tâm (Polycentric Corp.) + Công ty Khu vực trung tâm (Regioncentric Corp.) + Công ty Địa trung tâm (Geocentric Corp.) 2.2.3: Quá trình hình thành và phát triển Công ty Xuyên quốc gia (TNC) ra đời trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB). Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của CNTB, mục đích lợi nhuận và sự phát triển sản xuất đã làm tăng yêu cầu về thị trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị trường hàng hoá và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã thúc đẩy việc tăng cường khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận trong thị trường bên ngoài. Quá trình này đã được tạo điều kiện bởi sự phát triển của thương mại quốc tế đã hình thành qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng được tạo điều kiện bởi sự ủng hộ của các nhà nước TBCN và chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, quá trình đi từ hợp tác giản đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công thương tư bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng này. Trên cơ sở đó, các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát triển. Những tổ chức kiểu này được biết đến sớm là vào đầu thế kỷ XVII như các Công ty Đông Ấn của Anh, Hà Lan hay Công ty Hudson Bay. Vào thời bấy giờ, các công ty đó đã có ảnh hưởng nhất định đến QHQT như khuyến khích hoặc trực tiếp thi hành chủ nghĩa thực dân. Có những đoàn thám hiểm thực dân do các công ty này tổ chức. Nhiều cuộc xâm lược do chính các công ty này khuyến khích và hỗ trợ. Khi ách thực dân đã được thiết lập, những công ty này đã đi đầu trong việc bóc lột và khai thác thuộc địa. Các TNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn sản xuất-kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do trong thời kỳ đầu của CNTB với sự thôn tính cá lớn nuốt cá bé cũng tạo thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn từ Syndica qua Trust tới Conglomerate. Đáng chú ý, sự cạnh tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty này. Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới còn nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế của chúng với quyền lực chính trị của nhà nước TBCN. Điều đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc trong QHQT. Hai quyền lực này đã song hành cùng nhau trong nhiều nỗ lực tranh giành thị trường quốc tế, mở rộng khu vực ảnh hưởng và chiến tranh đế quốc. Sau Chiến tranh Thế giới II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã tạo điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các TNC, đặc biệt trong thế giới tư bản. Nhiều TNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Sự phát triển của TNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, năng lực tài chính và khoa học kỹ thuật, mà còn ở sự mở rộng hoạt động kinh doanh ra khắp thế giới tư bản. Vai trò của TNC trong QHQT cũng vì thế mà đã tăng lên qua sự đóng góp rất lớn vào việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thương mại xuyên quốc gia và mở rộng phân công lao động quốc tế. Bên cạnh đó, sự ra đời của hàng loạt quốc gia mới thuộc Thế giới thứ Ba cùng với sự yếu kém của các nền kinh tế đó cũng vẫn duy trì cơ hội cho TNC mở rộng kinh doanh tại thị trường này. Tuy nhiên, quá khứ gắn liền với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã tạo nên sự phản ứng và nghi ngờ đối với các TNC. Trong những năm 1960 và 1970, nhiều nước mới giành được độc lập đã coi các TNC là kẻ bóc lột, thực dân kinh tế hay động vật ăn thịt các nước nghèo. Các TNC còn bị lên án bởi xuất khẩu công nghệ lạc hậu, khai thác quá nhiều tài nguyên không tái tạo được, tranh giành thu hút lao động chuyên môn, chèn ép sản xuất nội địa và tạo nên một tầng lợp giàu xổi ở nước sở tại... Vì thế, tài sản nước ngoài của các TNC được quốc hữu hoá ở nhiều nơi. Các TNC phải rút lui khỏi thị trường của một số nước Thế giới thứ Ba. Mặc dù vậy, điều này cũng không ngăn cản được sự lớn mạnh của các TNC, đặc biệt ở các nước TNCN phát triển. Từ những năm 1980, nhất là sau Chiến tranh Lạnh, các TNC đã phát triển rất mạnh mẽ và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong QHQT. Xu thế hoà dịu sau Chiến tranh Lạnh, sự phát triển của kinh tế thị trường như con đường phát triển chung, xu thế hợp tác cùng phát triển, trào lưu thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế... đã tạo điều kiện cho các TNC mở rộng địa bàn, phát triển hoạt động ra khắp thế giới. Vai trò chính trị và thực lực kinh tế to lớn cũng như sự chi phối nền kinh tế thế giới của các nước phát triển - nơi xuất phát của hầu hết các TNC lớn - tiếp thêm điều kiện cho sự phát triển và vai trò của các TNC. Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về TNC đã góp phần đáng kể cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các TNC. TNC ngày càng được coi là công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thuế thu, là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Điều kiện chính trị thay đổi ở nhiều nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi, sự phát triển của hệ thống luật lệ quốc tế và pháp luật quốc gia liên quan đến TNC cũng làm giảm bớt sự nghi ngại chính trị đối với các TNC. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và thậm chí còn cạnh tranh với nhau trong việc thu hút TNC. Nhờ đó, các TNC đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế. Sau Chiến tranh Lạnh, TNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các TNC tăng gần gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000 vào năm 2004. Đồng thời, mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng thấy với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 690.000 vào năm 2004 [2. Tr.113]. Một điểm khác cũng đáng chú ý, TNC không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã xuất hiện cả trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi.Tuy nhiên, quy mô và vai trò của các TNC này vẫn còn rất khiêm tốn . Chúng chỉ chiếm 4 trong tổng số 100 TNC phí tài chính lớn nhất thế giới năm 2003(1), chiếm 3 trong tổng số 50 TNC tài chính lớn nhất thế giới năm 2004(2). Biểu đồ: Sự phát triển của TNC sau Chiến tranh lạnh _____________ (1) (2) Trong số 100 TNC lớn nhất, 25 thuộc Mỹ, 50 thuộc EU (37/50 thuộc Đức, Pháp , Anh), 9 thuộc Nhật. Các nước phát triển khác như Canada, Australia, Thụy Sĩcó 12 TNC. Trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển chỉ có 4 TNC, đó là Flatchison Whampoa của HongKong (xếp hạng 16), Singte Ltd của Singapore (66), Petronas của Malaysia (72) và SamSung của Hàn Quốc (99) [2, tr.267-269] . Đó là 3 ngân hàng mới của Trung Quốc mới tham gia danh sách 50 TNC tài chính lớn nhất thế giới chưa lâu với vị trí xếp hạng lần lượt là: Ngân hàng Công thương Trung Quốc (23), Ngân hàng Trung Quốc (34), Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (39). [2, tr.237] Đặc điểm của Công ty Xuyên quốc gia trong quan hệ quốc tế TNC được nhiều người coi là một loại hình tổ chức quốc tế phi chính phủ (INGO) trong kinh tế. Giữa INGO và TNC có những đặc điểm giống nhau. Nhưng cũng có nhiều người khác tách TNC như một chủ thể phi quốc gia riêng. Sở dĩ như vậy là bởi vì TNC có những đặc điểm riêng không chỉ trong tổ chức, hoạt động mà cả trong tác động của nó tới QHQT. Điều này tạo nên vị trí riêng của nó đối với quốc gia và trong QHQT. Dưới đây là một số đặc điểm chủ yếu của TNC trong QHQT. + Tính cá nhân trong tổ chức và hoạt động. Cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động, thành phần tham gia, nguồn tài chính đóng góp... của các TNC xuất phát chủ yếu từ nguồn cá nhân hơn là nhà nước. Điều này khiến cho tổ chức và hoạt động của các TNC dựa trên ý chí cá nhân của những người góp vốn hơn là ý chí quốc gia. Các TNC theo đuổi lợi ích của chính mình hơn là lợi ích quốc gia. Trên thực tế, có những TNC thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước nắm cổ phần quyết định nhưng số lượng tương đối ít. Vì thế, tính cá nhân vẫn là đặc điểm phổ biến của TNC. + Tính quốc tế trong thành phần, mục đích và hoạt động. Chủ sở hữu và thành viên góp vốn của TNC thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Mục đích của các TNC là lợi nhuận trên thị trường quốc tế chứ không bó hẹp trong thị trường nội địa. Hoạt động kinh doanh của nó là xuyên quốc gia với việc khai thác thị trường quốc tế, thiết lập chi nhánh nước ngoài và sử dụng nguồn nhân lực đa quốc gia. Hiện nay, tỉ trọng tài sản nước ngoài, giá trị thương mại của các chi nhánh nước ngoài và nhân công nước ngoài của TNC đều tăng lên. Đây là điểm giúp phân biệt TNC với các công ty quốc gia (National Corporation). + Tính tự nguyện trong thành lập và hoạt động. Điều đó tức là mục đích, sự thành lập và nhiệm vụ đề ra, đóng góp và hoạt động của TNC chủ yếu được thực hiện trên cơ sở thoả thuận kinh tế hay dân sự một cách tự nguyện chứ không hoàn toàn chịu chi phối, cưỡng ép của quốc gia. Tất nhiên, tính chất này không bao gồm các TNC thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong thực tế, các TNC đó cũng được trao quyền tự chủ kinh doanh khá lớn. + Khác với các INGO có mục tiêu và chương trình nghị sự rất đa dạng, các TNC thường chỉ có mục đích là lợi nhuận. Khác với INGO ít gắn trực tiếp với chính trị, TNC có sự gắn bó đáng kể với chính trị. + Tính thể chế của TNC chặt chẽ hơn nhiều so với các INGO. TNC là loại hình tổ chức kinh doanh quốc tế với tổ chức, nguyên tắc hoạt động và sự quản lý khác hẳn với INGO. Cơ cấu tổ chức của TNC thường theo hình kim tự tháp với mức độ ràng buộc cao và sự phân nhiệm rõ ràng. Chúng có hệ thống các quy định chặt chẽ cho mọi công đoạn hoạt động từ tổ chức xuống từng cá nhân. Các nguyên tắc hoạt động được quy định rõ ràng và có tính bắt buộc. Tính chất quan hệ trong TNC thường mang tính phục tùng. Tính thể chế của TNC thường được thể hiện trong điều lệ công ty, quy chế hoạt động, nội quy và các phương án kinh doanh cụ thể. Các TNC hoạt động tương đối độc lập với quốc gia do chúng có sự chủ động về tổ chức, tài lực và nhân lực. Chúng hoạt động vì lợi ích của bản thân nhiều hơn là vì lợi ích quốc gia. Nhìn chung, các TNC được tự do định đoạt quy mô, đối tượng và phương án thực hiện hoạt động kinh doanh mà ít có sự can thiệp của nhà nước. Sự độc lập của TNC còn được tăng lên bởi những quy định pháp lý của nhà nước cho phép nó được quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh. Bản thân thế lực khá lớn của các TNC cũng giúp đem thêm tính độc lập tương đối cho chúng. + Tuy nhiên, hoạt động của TNC vẫn phụ thuộc vào quốc gia khi chịu sự điều chỉnh của luật pháp chính quốc cũng như của nước sở tại. Hiện nay, hoạt động của các TNC ngày càng có sự liên quan gắn bó đến nhau. Điều này được quy định bởi tính hệ thống của nền kinh tế, xu hướng thống nhất của thị trường thế giới, quá trình phân công lao động và bởi cố gắng chính trị của nhà nước nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Những đặc điểm trên không chỉ tạo ra bản sắc riêng mà còn góp phần đem lại vai trò chủ thể QHQT cho TNC. 2.3: Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong quan hệ quốc tế. Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất, vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong QHQT đang đem lại cho TNC khả năng của một chủ thể QHQT. Điều này được thể hiện trên 4 tiêu chí của chủ thể QHQT là tham gia, mục đích, năng lực và ảnh hưởng. + Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, TNC bắt đầu ghi dấu ấn lớn trong QHQT với việc vươn ra thị trường nước ngoài từ nửa cuối thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Về mặt không gian, ngày nay, các TNC đã phủ sóng hầu như khắp mọi quốc gia trên thế giới. Về kênh quan hệ, các TNC tham gia vào QHQT không chỉ qua quan hệ giữa TNC với quốc gia khác, giữa TNC với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ sở với các chi nhánh của mình ở nước ngoài. Về hình thức quan hệ, đó là sự phân công lao động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương mại xuyên quốc gia, giao dịch tài chính quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước ngoài, Về lĩnh vực tham gia, hoạt động của TNC không chỉ diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, sự tham gia của TNC trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong QHQT. Vùng Châu Âu EU Các nước Châu Âu phát triển khác Đông nam Âu CIS Châu Mỹ Bắc Mỹ Nam Mỹ Trung Mỹ Các nước Caribbea Châu Đại Dương Số lượng 199.303 10.485 97.407 10.405 28.332 6.654 26.881 1.860 4.822 Vùng Châu Á Đông Bắc Á Đông Nam Á Nam Á Tây Á Châu Phi Bắc Phi Tây Phi Trung Phi Đông Phi Nam Phi Số lượng 250.020 33.892 3.237 11.025 3.286 575 274 792 919 Bảng: Số lượng chi nhánh nước ngoài của các TNC theo vùng (đến 2004) (1) ____________ (1) Ví dụ, năm 2003, trong số 100 TNC phi tài chính có số tài sản nước ngoài lớn nhất, chỉ có 11 TNC có số lượng chi nhánh nước ngoài dưới 100, còn lại đều có tới hàng tram chi nhánh. Cá biệt có TNC có tới hang nghìn chi nhánh nước ngoài như HutchisonWhampoa (HongKong) với 1990/2350, General Electric (Mỹ) với 1068/1398 [2,tr.267]. Trong số các TNC tài chính, City Group (Mỹ) có chi nhánh tại 77 nước: UBS (Thụy Sĩ), Allianz Group (Đức) . + Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, tất cả các TNC đều có mục đích lợi nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của các TNC và được phản ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt động kinh doanh. Không có mục đích lợi nhuận, không phải là TNC. Trên phương diện QHQT, mục đích này là động lực chính hướng hoạt động của TNC ra bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên thị trường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến TNC góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào QHQT. Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị trường, tăng cường hoạt động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của chúng trong QHQT. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các TNC có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế các nước như đầu tư vốn, kích thích xuất khẩu, mở rộng sản xuất, cải tổ cơ cấu, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng quản lý, tạo việc làm, Các tác dụng tích cực đó đã khiến mục đích lợi nhuận của TNC dễ hoà hợp hơn với mục đích phát triển của các nước. Đồng thời, việc giảm thiểu sự can thiệp chính trị thô bạo như trước kia cũng góp phần làm giảm mâu thuẫn với mục đích an ninh chính trị của các nước đang phát triển. Và từ đó, sự nghi ngại, chống đối TNC ở các nước này cũng giảm theo. Đó chính là cơ hội cho TNC mở rộng hoạt động ra khắp thế giới để thực hiện mục đích lợi nhuận. + Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các TNC có nguồn tài lực và nhân lực riêng từ các chủ sở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của chúng rất lớn và nguồn nhân lực của chúng cũng dồi dào. Thậm chí, có những TNC có số tài sản vượt xa GDP của nhiều nước phát triển. Đó là chưa kể xu hướng M&A đang tạo ra những TNC khổng lồ trong nền kinh tế quốc tế. Các TNC được luật pháp chính quốc cũng như nước sở tại trao cho quyền tự chủ và những thẩm quyền riêng trong hoạt động kinh doanh. Luật pháp của chính quốc thì rộng rãi, luật pháp nước sở tại thì khuyến khích, luật pháp quốc tế thì còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển vốn lại là chính quốc nên càng tạo điều kiện cho sự tự trị của TNC. Cơ sở tài chính, nguồn nhân lực và những thẩm quyền như vậy đem lại cho các TNC khả năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong hoạt động kinh doanh. TNC tự quyết định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực, chính sách và biện pháp kinh doanh của nó ở bất kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế của ai, miễn là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của TNC còn được thể hiện qua khả năng tác động lên quốc gia và can thiệp vào một số khu vực thuộc thẩm quyền quốc gia. Hiện nay, cho dù vẫn phải chịu sự điều chỉnh nhất định của quốc gia, năng lực này của TNC vẫn đang được củng cố nhờ xu hướng tự do hoá thương mại, sự chào đón của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triển năng lực của bản thân các TNC và cả xu hướng tăng cường hợp tác giữa chúng. + Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong QHQT, TNC có được vị trí khá lớn trong QHQT không chỉ nhờ thực lực to lớn và khả năng kiến tạo các quan hệ xuyên quốc gia. Ảnh hưởng này còn được quy định bởi nhu cầu phát triển ngày càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này đã đem lại vị thế quan trọng cho TNC trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Hơn nữa, các TNC chủ yếu xuất phát từ các trung tâm chính trị và kinh tế lớn của thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu thuẫn của các thế lực này, ảnh hưởng kinh tế và tiếng nói chính trị của TNC trong QHQT được tăng lên đáng kể. Đáng chú ý, sau Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng của TNC trong QHQT có chiều hướng tăng lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế trong QHQT đem lại vị thế quốc tế cao hơn cho TNC, thì xu thế thống nhất của thị trường thế giới đem lại ảnh hưởng toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do khả năng chi phối chính trị của kinh tế ngày một lớn nên khả năng tác động tới quốc gia và QHQT của TNC cũng rất đáng kể. Nhìn chung, TNC vẫn có khả năng tác động lên quốc gia, kể cả chính quốc lẫn nước sở tại, buộc chúng thay đổi hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, trong nghiên cứu QHQT, quan niệm về vai trò chủ thể QHQT của TNC khá khác nhau: + Những người theo Chủ nghĩa Hiện thực (Realism) vẫn tiếp tục coi quốc gia như chủ thể QHQT cơ bản. Họ hoặc phớt lờ, hoặc chỉ coi TNC như công cụ thực hiện lợi ích quốc gia. + Chủ nghĩa Tự do (Liberalism), đặc biệt xu hướng lý luận của Chủ nghĩa Đa nguyên (Pluralism) và Chủ nghĩa Xuyên quốc gia (Transnationalism) lại dựa vào TNC như một cơ sở thực tiễn và lý luận quan trọng. Cả hai đều coi sự phát triển và vai trò ngày càng tăng của TNC trong QHQT để chứng minh rằng quốc gia không phải là chủ thể duy nhất, rằng TNC chính là sự nổi lên của một loại hình chủ thể QHQT mới - chủ thể phi quốc gia. Chủ nghĩa Xuyên quốc gia còn đi xa hơn khi cho rằng TNC đang làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa quốc gia và nhân dân, từ đó góp phần làm thay đổi QHQT và thế giới. + Chủ nghĩa Kiến tạo (Constructivism) tuy không đề cập trực tiếp đến tư cách chủ thể QHQT của TNC nhưng cũng cho thấy có sự đánh giá cao đối với vai trò của lực lượng này. Chủ nghĩa Kiến tạo cho rằng hành vi của quốc gia được định hình bởi niềm tin của giới tinh hoa (elite) mà rõ ràng giới kinh doanh TNC là một phần trong số đó. KẾT LUẬN Bất luận quan niệm thế nào, tác động của TNC là đáng kể trong QHQT. Và đó là tác động có tính hai mặt. Thông qua quá trình hoạt động và mạng lưới kinh doanh quốc tế của mình, các TNC góp phần mở rộng QHQT, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy toàn cầu hoá, hình thành luật lệ trong QHQT, chuyển tải các giá trị xuyên biên giới và củng cố hệ thống quốc tế. Các đóng góp tích cực nhất của TNC là phát triển kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho hợp tác và hội nhập quốc tế, thúc đẩy xu hướng thống nhất của thế giới Tài liệu tham khảo Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 |