Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Phật Mẫu Man Nương là một nhân vật liên quan đến sự tích Phật giáo Việt Nam khi đạo Phật mới truyền sang đất Việt. Bà có tên là A Man, người làng Mãn Xá vùng Luy Lâu tên tục của làng là kẻ Mèn. Cha mẹ bà là vợ chồng ông Tu Định, một cư sĩ Phật giáo thuần thành và là đệ tử của Khâu Đà La thiền sư. Sau này bà "cải gia vi tự" biến nhà thành chùa nên nhà cũ của bà hiện nay là chùa Tổ (Phúc Nghiêm tự).

Sự tích[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền thuyết kể rằng thuở xưa bà là một người con gái rất sùng đạo, năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo tại đây.

Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn thận. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền.

Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào ngày 8 tháng Tư (âm lịch), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích (gậy tích trượng) gõ vào cây Dung Thụ (dâu ) ở cạnh chùa; cây dâu tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.

Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo "Có phải con mẹ thì đi lên theo mẹ" lập tức kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).

Di tích[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024
Tượng Pháp Vân chùa Thiền Định , bà Dâu chùa Dâu, phía trước là hộp đựng đá Thạch Quang Vương PhậtTập tin:Chùa Thành Đạo Pháp vũ.jpgTượng Pháp Vũ Chùa Thành Đạo ( do chùa bị phá năm 1947 nên đem về chùa Dâu) , bà Đậu
Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024
Tượng Pháp Lôi chùa Phi Tướng , bà Tướng chùa TướngTập tin:Tứ Pháp Pháp Điện.jpgTượng Pháp Điện chùa Trí Quả , bà Dàn ở chùa Dàn

Bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở bốn ngôi chùa: Dâu, Đậu, Tướng, Dàn ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Làng Mãn Xá lập chùa Phúc Nghiêm thờ Man Nương, gọi là Phật Mẫu, nên gọi chùa này là chùa Tổ. Hàng năm vào ngày hội chùa Dâu ngày 8 tháng Tư (âm lịch), thì ba làng Đậu, Tướng, Dàn rước tượng Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện về chùa Dâu gặp Pháp Vân rồi bốn chị em về chùa Tổ thăm Mẹ. Thời Pháp thuộc, chùa Đậu bị phá nên tượng Pháp Vũ để ở chùa Dâu. Thạch Quang Phật được thờ ở Chùa Tổ sau đó chuyển về thờ ở Chùa Dâu.

Tên tự là chùa Phúc Lâm (còn gọi là Chùa Trăm gian): Chùa được xây dựng sớm nhất Quần Anh, vào khoảng cuối thế kỷ XV (1485- 1500). Chùa làm ở ngay bắc chợ Lương nên người ta cũng gọi là chùa Lương. Khi mới làm, chùa được lợp cỏ, sau lợp ngói .

Năm 1589, tạo đôi bình Bát Tràng; năm1682, tạo rồng đá cầu ao; năm 1684, làm mới tả hữu hành lang, hậu phòng; năm 1725, làm lại toà hương án tiền; năm 1726, dựng cây thiên đài thạch trụ; từ năm 1746- 1748 (3 năm), làm lại thượng điện, tiền đường, tượng Phật, tam quan, hoành long, hậu phòng; năm 1750, đúc thanh la đồng và trống đồng; năm 1763, đúc tượng Phật Tam thế (năm 1796, Cảnh Thịnh thứ 4, tượng đồng và đồ đồng trong chùa bị triều đình thu để đúc vũ khí); năm 1797, đúc tượng Phật Thích ca; năm 1826, đúc chuông lớn (nay treo ở gác chuông); năm 1834, sửa lại tiền đường, hậu đường, nhà tổ, tả hữu hành lang, tam quan; năm 1883, đào hồ trước chùa; năm 1836, làm lại gác chuông cao 3 tầng; năm 1997, đại tu hành lang tây; năm 1998, xây tượng đài giữa hồ và xây bờ hồ, năm 2005, đại tu hành lang tây; năm 2006, xây lại nhà tổ.

Qua nhiều lần xây dựng và trùng tu chùa Lương ngày càng rộng lớn, có quy mô hoàn hảo với 100 gian, gồm Tiền đường, Thượng điện, Hậu điện, 2 hành lang Đông Tây, nhà Tổ, 2 dãy hậu phòng, nhà khách, gác chuông, tam quan, trước chùa có hồ bán nguyệt… Hiện nay, Chùa vẫn giữ được kiến trúc cổ truyền thống của thế kỷ XVII- XVIII.

Từ xưa, chùa Lương đã là một cảnh quan kỳ thú có một không hai của đất Nam Định. Hàng năm, cứ vào tháng 3, dân làng mở hội, gọi là “vào đám cầu phúc” (cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà). Ngày nay, lễ hội được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng ba (âm lịch). Chùa trở thành một điểm thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước.

- Đền Thuỷ Tổ Quần Anh:

Cách đây 5 thế kỷ - Thuỷ tổ Trần Vu làm nghề chài lưới ven biển, quan sát thấy bãi biển phía Nam - huyện Nam Chân - Một vùng đất đẹp nổi cồn.

“Chốn hải tần cách nước mây

Cá bơi, hạc đứng, nơi này mở mang”

Thế đất có hình dáng “Long”. Cồn rồng vươn lên phương Bắc, lưng lượn chín khúc (sông cửu khúc), thổ nhưỡng phì nhiêu, long mạch (sông nước) thuận tiện, vượng khí (thiên nhiên) thoáng đãng. Thuỷ tổ nghĩ ngay nơi đây là nơi đất lành (linh) về quê làng Tương Đông cùng Tổ Vũ Chi Nguyên - đỗ tiến sỹ hàm quan Chánh án phủ sứ Ái Châu (Thanh Hoá), sau được Tổ Hoàng Gia, Phạm Cập xuống hiệp lực.

Sau quy tụ thêm 9 dòng họ: Lại, Nguyễn, Lê, Bùi, Đỗ, Phan, Đoàn và Trần, Vũ khác.

“Tứ tổ khai cơ, lập cồn ấp

Chín họ bao đê dựng xóm làng”.

Năm 1511 đổi thành Quần Anh Xã (nơi quy tụ các anh tài). Cuộc sống ngày thêm phồn thịnh, phong tục, tập quán làng quê được thiết lập: “Nội thập giáp, Ngoại tứ thôn”. Mỗi giáp có một cầu, một đình, một dong. Còn dòng Trung Giang giữa làng được chia 10 giáp từ Giáp Nhất đến Giáp Thập. Cầu Giáp Thập, nơi trung tâm giao lưu có mối liên quan chặt chẽ với chợ, đình, chùa được làm to, đẹp, chắc chắn: dưới cầu, trên lợp ngói.

Năm 1615, biển lùi xa người về tụ hội thêm đông. Nhiều thôn rộng lớn được tách lập, cho đến năm 1804 Quần Anh phân thành 3 xã (Quần Anh Thượng, Quần Anh Trung, Quần Anh Hạ).

Năm 1829, thành lập nhiều tổng. Năm 1888, từ các tổng xây dựng nên huyện Hải Hậu.

Thuỷ tổ Quần Anh ngoài việc khai hoang lấn biển, mở mang điền địa, còn quan tâm tới nhiều mặt đời sống: mời thầy dạy chữ, dạy nghề, bắc cầu, mở chợ, xây đình, chùa, đền. Làm cho vùng quê ven biển có cuộc sống yên vui, nền nếp.

Năm 1862, 1867 Vua Tự Đức ban tặng Quần Anh: “Mỹ tục khả phong” và “Thiện tục khả phong” (nơi có nhiều phong tục tốt đẹp).

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Để ghi nhớ công ơn tiên tổ tại đình Phong Lạc, nhân dân lập Đền thờ “Thuỷ Tổ Quần Anh” để thờ Tứ tổ và các Liệt tổ khai sáng. Đền làm theo kiểu chữ Đinh, được xây dựng từ năm Đinh Mão (1924). Bài trí, thờ tự ở đây có sự phân định công trạng, trước sau rõ ràng: Ngoài “Tứ tổ khai sáng” còn thờ “Thành trung liệt tổ” tiếp đến “Kế chí liệt tổ”, công nghệ, nghiệp sư.

Ngày 26/3/1990, Chùa Lương - Đền Thủy tổ Quần Anh được Bộ VHTT công nhận là Di tích LSVH.

2. Cầu Ngói:

Cầu cách chùa Lương 150 m, nằm trên trục đường gắn liền với chùa, đền thành một cụm di tích. Theo "Quần Anh địa chí", cầu được hình thành cùng thời gian với chùa.

Qua đôi câu đối trên cầu cho thấy Thuỷ Tổ đã quan tâm đến việc bắc cầu ngay từ thời gian đầu tiến hành khẩn hoang: “Lê Hồng Thuận Tứ tính thuỷ mưu giá ốc biệt thành giang thượng lộ”. “Hoàng Khải Định thất niên trùng tấp dư lương y cựu kính trung thê”. Nghĩa là:

“Đời Hồng Thuận (1509 - 1515) bốn họ tính kế dựng nhà trên cầu, thành đường trên nước”. “Đời Khải Định thứ 7 (1922) tu sửa như cũ, từng bậc xếp lên gương”.

Buổi đầu còn đơn sơ lợp cỏ, đến thế kỷ XVII cầu được tu sửa quy mô hợp với cảnh chùa Phúc Lâm, qua nhiều năm nhưng vẫn mang đậm phong cách kiến trúc cổ truyền Việt Nam, là một di tích độc đáo của trấn Sơn Nam Hạ xưa và Nam Định nay. “Cầu Nam, Chùa Bắc, Đình Đoài”. Cầu Ngói, chợ Lương là một trong ba cây cầu đẹp nhất miền Bắc Việt Nam.

Cầu cũng còn gọi là cầu “Thượng gia hạ trì” (trên nhà dưới sông). Cầu bắc ngang sông Trung Giang. Toàn bộ cầu 9 gian gỗ lim bắc trên hai hàng cột đá to đẹp với hệ thống cột xà dầm, bố cục chặt chẽ, gia công tỷ mỉ với bàn tay tài hoa người thợ Quần Anh. Ngoài, nề, mộc đạt trình độ kỹ thuật, mỹ thuật cao, khéo léo tạo bộ khung nhà cầu vừa cong uốn lượn mềm mại, mái ngói nam trông như con rồng duyên dáng đang vươn mình bay lên.

Cầu tuy trạm, khắc đơn giản song thể hiện hài hoà nét kiến trúc cổ truyền. Cầu là nơi đi lại và dừng chân khách bộ hành nghỉ ngơi ngắm cảnh sông nước, làng quê.

Cầu Ngói là công trình nghệ thuật độc đáo hiếm có mà nhiều khách trong và ngoài nước về tham quan phong cảnh ca ngợi gọi là “Cầu chùa Phương Đông”, cũng là đề tài nguồn cảm hứng của nhiều thi sỹ xưa và nay.

Đôi câu đối trên cầu:

“Hoàng lộ phong thanh quá thử kỷ đa đề trụ khách.

Giang thành dạ tĩnh du phương ứng hữu thụ thư tiên”

Nghĩa là:

“Trên đường gió mát nhiều khách qua đây lưu lại văn thơ ca ngợi.

Đi trên cầu trong đêm vắng như có nhận được sách tiên”.

Quần thể di tích lịch sử văn hoá Cầu Ngói - Chùa Lương, một công trình quý báu với thành quả lao động, trí tuệ, sáng tạo, bàn tay tài hoa, công lao to lớn, tổ tiên Quần Anh đã để lại cho hôm nay một danh lam thắng cảnh mang đậm bản sắc văn hoá quê hương.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Trong những năm qua khu di tích được đón nhiều quý khách trong và ngoài nước về tham quan. Ban di tích cùng nhà sư bản tự và nhân dân từng bước tu sửa, bảo vệ di tích được trường tồn.

Ngày 26/3/1990, Cầu Ngói được Bộ VHTT công nhận là Di tích LSVH.

3. Chùa Phúc Hải - Hải Minh

Chùa Phúc Hải thuộc xã Hải Minh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định được xây dựng từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX trong một quần thể kiến trúc truyền thống bao gồm chùa và đền thờ Trần Hưng Đạo do Tứ tổ Mai, Phan, Phạm, Nguyễn khởi công huy động nhân dân xây dựng; ngày nay Đảng bộ và nhân dân Hải Minh xây dựng tiếp đền thờ Tứ tổ và nhà truyền thống theo lối kiến trúc truyền thống tạo nên một quần thể Di tích lịch sử văn hóa có 17 tòa với 67 gian.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa Phúc Hải thờ Phật và Tứ tổ đã có công đầu tiên trong việc khai hoang lấn biển, thành lập xã Kim Đê xưa (Hải Minh ngày nay). Đây là một công trình kiến trúc quy mô, được xây dựng trên một địa bàn đẹp. Tòa bái đường được bảo tồn phong cách kiến trúc cổ truyền, thiết kế theo kiểu thượng chồng giường, hạ kẻ bẩy. Trên các đầu xà, câu đầu, trên hệ thống con giường được đục chạm hoa lá, tạo đường nét uốn lượn mềm mại. Hai chiếc bẩy ở gian giữa được đục chạm công phu hình ảnh 2 con rồng khỏe mạnh, râu tóc uốn lượn hài hòa với những làn vân ám đang chầu vào cửa tam bảo. Bái đường có bộ cửa võng trang trí cảnh lưỡng long chầu nguyệt, phía dưới là đôi phượng đang múa uyển chuyển, đôi ly chầu sinh động với một ao sen hoa lá nổi bật và con rùa phun nước làm cho Tam bảo thêm trang nghiêm lộng lẫy. Đặc biệt chùa có gác chuông tám mái, hệ thống tượng pháp phong phú như tượng Tam thế, Cửu long, Bồ tát, Ngọc Hoàng, Nam tào, Bắc đẩu, Thập diện, Đức ông, Thánh hiền, Thánh tăng, Thổ địa, Nam thiên thánh tổ... và một số đồ thờ có giá trị cao về nghệ thuật tạo dáng, điêu khắc và sơn thếp cổ truyền. Tại đây còn bảo tồn được nhiều văn bia có nội dung phong phú, giúp cho việc nghiên cứu lịch sử khẩn hoang đồng thời phản ảnh tài nghệ điêu khắc đá; tiêu biểu như bia “Phúc Hải tự bia” có niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ sáu (1624) không chỉ có giá trị về lịch sử mà còn là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị.

Trong kháng chiến chống xâm lược chùa còn là cơ sở kháng chiến tin cậy của lực lượng cách mạng trong chống Pháp và chống bọn phản động đội lốt tôn giáo, góp phần vào công cuộc kháng chiến thắng lợi của dân tộc.

Hàng năm từ ngày 1- 3 tháng 3, chùa mở hội làng có rước kiệu trong khuôn viên khu di tích, nhân dân khắp nơi nô nức kéo về lễ Phật, lễ Tứ Tổ, Trần Hưng Đạo, Thành hoàng làng; cầu cho nam phục lão ấu bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, ngành nghề phát triển.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Ngày 11/9/2003, chùa Phúc Hải xã Hải Minh đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa.

4. Chùa Anh Quang (Chùa xã Hạ)

Chùa được xây dựng ở phía Bắc cầu Đông Cường (nay thuộc xóm 8 xã Hải Bắc) vào năm 1822, Nhâm Ngọ, Minh Mạng thứ 3. Năm 1824, xây nhà tổ. Năm 1834, xây tháp chuông. Bên cạnh chùa có phủ thờ Mẫu, có bàn thờ Tống Hậu, Phía Nam chùa là đền thờ Đức Thánh Trần và các Tổ khai sáng. Năm 2000, xây tam quan .

Trong 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược, nhà chùa đã có nhiều sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày 16/1/1995, chùa và đền được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hoá .

Hàng năm, vào đầu tháng 2 Âm lịch, nhân dân địa phương mở hội chùa.

5. Chùa Phúc sơn (Chùa Trung)

Theo bia ký sự chùa do cụ cử nhân Trần Thuyên soạn năm 1932, chùa do sư cụ Lại Khang, tự là Sinh Trí, hiệu là Thanh Sơn, quê xã Trung, tu tại chùa Thiên Biên xã Hà Nam, bỏ tiền mua 7 sào đất ở khu Ngọc Lâm xã Trung (nay là xóm 12 Hải Trung) làm vào năm 1859, Tự Đức 12, Kỷ Tỵ. Lúc đầu chỉ gọi là Tĩnh. Năm 1899, Kỷ Hợi, Thành Thái 11, được công nhận là chùa. Năm 1902, Nhâm Dần, Thành Thái 14, chùa được trùng tu mở rộng, mới đổi gọi là Phúc Sơn tự, tục còn gọi là chùa Tĩnh. Năm 1912, xây phủ Thiên Tiên ở Đông chùa thờ Mẫu Liễu Hạnh. Năm 1916, xây gác chuông; năm 1950, khai hồ bán nguyệt trước chùa; năm 1996, xây Tam quan và bờ hồ; năm 2001, xây đền Trần phía Đông chùa; năm 2003, xây Đền Tứ Tổ phía Tây chùa. Năm 2008, chùa và gác chuông được trùng tu, khuôn viên được sửa sang, cảnh chùa rất khang trang. Ngày 5/11/1996, chùa Phúc Sơn được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hoá.

Hàng năm, chùa mở hội vào trung tuần tháng 3 âm lịch .

6. Chùa Quy Hồn (Chùa Cồn)

Tục truyền rằng, vào tháng 5 Tân Dậu, Bảo Hưng thứ nhất (1801), một trận sóng thần đã dìm chết toàn bộ 52 gia đình làm nghề chài lưới ở xóm Cồn Cốc (khu chợ Cồn ngày nay); năm 1838, một trận lụt khác làm vỡ đê, chết nhiều người, xác trôi dạt về Cồn Cốc rất nhiều. Năm 1861, cụ Tú tài Nguyễn Vũ Cự đã đứng ra tổ chức thu gom hài cốt đưa về chôn cất vào một nơi và lập đền thờ gọi là đền Quy Hồn. Năm 1886, Đồng Khánh thứ nhất, Cụ Nguyễn Vũ Cự bỏ tiền của xây lại thành chùa Quy Hồn. Ngoài thờ Phật, thờ Thánh Mẫu, chùa còn thờ những người có công khai hoang lấn biển, dựng ấp, lập làng trong đó có Tân Hưng Trạch Đại vương (chủ sự của làng chài xưa) và Tú tài Nguyễn Vũ Cự. Chùa còn là cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chùa là cơ sở cách mạng, nuôi dưỡng cán bộ tham gia đánh chiếm đồn Đoan Văn Lý, giải phóng quê hương. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều nhà sư trụ trì chùa đã lên đường tòng quân đánh giặc. Ngày 23/1/1997, chùa Quy Hồn được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hoá.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Hàng năm, chùa tổ chức lễ hội vào đầu tháng 2 âm lịch.

7. Đền Bảo Ninh xã Hải Phương

Đền Bảo Ninh thuộc xóm 10, xã Hải Phương là nơi thờ Trần Hưng Đạo, Tứ tổ khai sáng và Dinh điền sứ- Tiến sỹ Đỗ Tông Phát, người con đầu tiên của Hải Hậu đỗ Tiến sỹ, có công khai khẩn tổng Quế Hải (một trong 4 tổng ngày đầu thành lập huyện Hải Hậu - 1888). Đền được xây dựng vào niên hiệu Tự Đức thứ 20 (1867) lúc đầu còn nhỏ bé, đến niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909) đền được làm lại với quy mô to lớn như hiện nay gồm: Hệ thống cột đồng trụ và cửa ra vào, nhà khách, sân, tường bao, và khu chính của đền gồm 6 tòa với gần 30 gian kiến trúc theo kiểu tiền chữ nhất, hậu chữ công. Nhà Tổ ba gian, Phủ Mẫu 4 gian. Các công trình xây dựng ở đây đã bổ sung, hỗ trợ cho nhau để tạo thành một quần thể hoàn chỉnh. Mỗi kiến trúc tuy có những nét khác nhau nhưng đều mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Tất cả hòa nhập làm tôn thêm giá trị của di tích. Ngoài vẻ đẹp và quy mô về kiến trúc của ngôi đền cổ, đền Bảo Ninh còn lưu giữ một số đồ thờ tự quý, có giá trị nghệ thuật như: nhang án, ngai, tượng, khay, đài, hòm sắc, cửa võng, kiệu. Tất cả đều có kiến trúc độc đáo, chạm nổi cách điệu lá lật, long chầu mặt nguyệt, hổ phù, rồng bay, phượng múa, hoa lá, đục thông phong lưỡng long chầu nguyệt... thể hiện tài nghệ điêu khắc của nhân dân địa phương.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Bên cạnh giá trị của kiến trúc nghệ thuật đền Bảo Ninh còn là cơ sở cách mạng của tỉnh ủy, huyện ủy trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây là cơ sở bí mật của huyện thường xuyên tổ chức các cuộc họp bí mật của tỉnh, của huyện và là điểm tập kết của lực lượng bộ đội tỉnh, dân quân du kích chuẩn bị lực lượng đánh bốt Văn Đàn và Đông Biên.

Hàng năm vào dịp tháng ba âm lịch đền mở hội làng. Đây là dịp mở hội đông vui nhất tại đền nên các gia đình, làng xóm sửa sang nhà cửa, đường dong, ngõ xóm để chuẩn bị đường rước, đón bà con thân quen ở khắp mọi miền về dự hội truyền thống của quê hương. Đền còn tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí như: cờ tướng, tổ tôm điếm, múa sư tử, hát chèo, hát văn, ngâm thơ trước cửa đền làm cho không khí ngày hội thêm tưng bừng náo nhiệt, ngày càng thu hút đông đảo khách thập phương xa, gần về dự hội và vãn cảnh đền.

Ngày 12/02/1999, đền Bảo Ninh được Bộ VHTT công nhận là Di tích LSVH.

8. Chùa Hà Lạn

Chùa được xây dựng từ năm 1742, thuộc xã Cẩm Hà Trang, Tổng Kiên Trung (nay thuộc xã Hải Phúc). Ngoài thờ Phật, thờ Mẫu, chùa còn thờ An phủ sứ Vũ Duy Hoà cùng các Tổ khai sáng là họ Vũ, Trần, Đoàn, Phạm, Đỗ có nguồn gốc từ Hải Dương xuống.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chùa đã có nhiều đóng góp cho cách mạng; có 3 vị sư trụ trì chùa đã trực tiếp tham gia cách mạng, một vị là liệt sỹ, 2 vị được tặng huân chương. Hàng năm, chùa tổ chức mở hội vào dịp đầu xuân. Ngày 28/12/2001, chùa được Bộ VHTT công nhận là Di tích lịch sử văn hoá.

9. Đền An Trạch:

Đền An Trạch nằm trên địa bàn thôn An Trạch, xã Hải An, huyện Hải Hậu được xây dựng vào thế kỷ XIX, đây là công trình kiến trúc gỗ truyền thống có quy mô khá lớn, một số cấu kiện chính đều có họa tiết phong phú, thể hiện giá trị nghệ thuật cao. Đền An Trạch ở làng An Trạch, xã Hải An (Hải Hậu) là 1 trong 4 ngôi đình cổ còn lại của huyện Hải Hậu. Đền được tổng trùng tu lớn vào năm 1921 đời Vua Khải Định, là nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ, đồng thời phối thờ các vị tổ lập nên làng An Trạch. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, ngôi đền vẫn giữ được kiến trúc nguyên mẫu và nhiều di vật, cổ vật có giá trị. Ngôi đền hiện còn lưu giữ 3 đạo sắc phong đều của triều Nguyễn gồm đạo sắc phong ngày 8-6 niên hiệu Duy Tân thứ 5 (1911) và 2 đạo sắc phong ngày 15-7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) phong cho Đương cảnh Thành hoàng Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ; tấm bia đá chạm 2 mặt, cao 110cm, rộng 60cm, dày 19cm…

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Tín ngưỡng thờ các vị thần ở đây vừa tạo nên sức mạnh tinh thần cho những người đi khai hoang dựng xây quê mới, vừa thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân địa phương. Trong quá trình bảo tồn và phát triển, đền An Trạch đã trở thành địa điểm có nhiều mối liên quan đến lịch sử hình thành làng xã. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đền An Trạch là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương, góp phần vào thành tích chung của quê hương Hải An.

Hàng năm tại di tích thường diễn ra các kỳ lễ hội để tri ân công đức của Đức Thánh Trần vào ngày 20/8 âm lịch; Ngày lễ kỷ niệm ngày mất của Dinh Điền sứ Nguyễn Công Trứ cũng như các vị tổ, những người đóng góp công sức vào việc xây dựng phát triển làng xã...

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Đền An Trạch đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra Quyết định số 618/QĐ-BVHTTDL ngày 10-3-2014 xếp hạng là Di tích Lịch sử cấp quốc gia.

10. Từ Đường Thuỷ Tổ Trần Vu - xã Hải Trung

Từ đường Thuỷ tổ Trần Vu do con cháu trong dòng họ dựng lên để tri ân công đức Thuỷ tổ Trần Vu. Công trình được xây dựng vào năm Giáp Dần niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), qua nhiều lần di chuyển và trùng tu hiện nay Từ đường được xây dựng khang trang tại xóm 11 xã Hải Trung với các hạng mục ngày thêm bền vững trong phong cách truyền thống của dân tộc.

Từ đường thuỷ tổ Trần Vu là công trình kiền trúc tôn giáo còn bảo lưu được kiến trúc gỗ với nhiều mảng chạm khắc đẹp, mặc dù trải qua nhiều lần xây dựng, tu sửa tôn tạo nhưng vẫn bảo lưu được đường nét cùng phong cách nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Di tích còn là nơi lưu giữ được nhiều tư liệu quý như: câu đối, đại tự ghi lại công lao, sự nghiệp của thuỷ tổ Trần Vu và phục vụ cho việc nghiên cứu về lịch sử, mảnh đất con người nơi đây.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Ngày 18/6/2021, Từ đường Thuỷ tổ Trần Vu được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 1903/QĐ-BVHTTDL.

11. Từ Đường Thuỷ Tổ Vũ Chi - xã Hải Anh

Từ đường Thuỷ tổ Vũ Chi là công trình tín ngưỡng được con cháu trong dòng họ xây dựng từ năm Đinh Tỵ niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 (1797) tại xóm 3 xã Hải Anh để tri ân công đức của Thuỷ tổ Vũ Chi một trong “Tứ tổ” khai sáng mảnh đất Quần Anh xưa, Hải Hậu ngày nay.

Nguyễn. Tại di tích hiện lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về lịch sử và nghệ thuật như: Sắc phong, văn bia, câu đối, đại tự.

Ngày 18/6/2021, Từ đường Thuỷ tổ Vũ Chi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp Quốc gia theo Quyết định

Từ đường Thuỷ tổ Vũ Chi là một công trình kiến trúc cổ khá quy mô, bảo lưu được đường nét kiến trúc nghệ thuật thời số 1903/QĐ-BVHTTDL.

12. Từ Đường Thuỷ Tổ Hoàng Gia - xã Hải Trung

Từ đường Thuỷ tổ Hoàng Gia là công trình tín ngưỡng được xây dựng từ lâu đời thuộc xóm 10 xã Hải Trung. Trải qua nhiều thế kỷ cùng với sự biến đổi của thời tiết và chiến tranh tàn phá, từ đường đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần và mở rộng thêm các hạng mục của công trình.

Từ đường là nơi thờ tự, tri ân công đức của các thế hệ con cháu họ Hoàng và nhân dân địa phương đối với Thuỷ tổ Hoàng Gia. Ông là một trong những người có công đầu tổ chức công cuộc khai hoang lấn biển tạo lập vùng đất Quần Anh xưa, Hải Hậu ngày nay.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Công trình kiến trúc từ đường tồn tại đến ngày nay vẫn bảo lưu được những giá trị kiến trúc truyền thống. Tại di tích còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị như sắc phong, bài vị, câu đối, đại tự.

Ngày 18/6/2021, Từ đường Thuỷ tổ Hoàng Gia được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 1903/QĐ-BVHTTDL.

13. Từ Đường Thuỷ Tổ Phạm Cập - xã Hải Anh

Từ đường Thuỷ Tổ Phạm Cập tại xóm 5 xã Hải Anh được xây dựng từ năm 1928. Từ đường là nơi thờ tự, tri ân công đức của các thế hệ con cháu họ Phạm và nhân dân địa phương đối với Thuỷ Tổ Phạm Cập. Ông là một trong những người có công đầu tổ chức công cuộc khai hoang lấn biển tạo lập vùng đất Quần Anh xưa, Hải Hậu ngày nay.

Công trình kiến trúc từ đường ngày nay vẫn bảo lưu được những giá trị kiến trúc truyền thống. Tại di tích còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị như văn bia, sắc phong, câu đối, đại tự.

Ngày 18/6/2021, Từ đường Thuỷ tổ Phạm Cập được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 1903/QĐ-BVHTTDL.

  1. DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP TỈNH

1. Đền - Chùa Quế Phương - Hải Tây

Đền - chùa Quế Phương được xây dựng từ năm Duy Tân thứ 6 (1912), qua hơn 6 năm xây dựng bằng sự đóng góp công sức, tiền của của nhân dân trong vùng do Hòa Thượng Bùi Xuân Quế trực tiếp thiết kế và chỉ đạo thi công đến năm 1918 chùa mới hoàn thành. Đây là quần thể di tích bề thế thể hiện sự tài năng, sức sáng tạo, đảm bảo về kỹ thuật, mỹ thuật cổ truyền của dân tộc.

Cùng với thờ Phật, thờ Mẫu, khu di tích Quế Phương còn có đền thờ Đỗ Tông Phát, đây là nơi ghi nhận công lao khai hoang lấn biển tạo dựng làng xã của Dinh điền Chánh sứ Đỗ Tông Phát ở cuối thế kỷ XIX. Tiến sỹ Đỗ Tông Phát là người con sinh ra và lớn lên tại Hải Hậu, cuộc đời làm quan của ông luôn gắn liền với công cuộc khai hoang lấn biển và chăm lo đời sống cho nhân dân. Sự nghiệp khẩn hoang của tiến sỹ Đỗ Tông Phát đã góp phần xây dựng nên một vùng đất mới (tổng Quế Hải) có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình hình thành và tạo dựng mảnh đất Hải Hậu giàu đẹp hôm nay. Việc lập đền thờ ông tại quần thể di tích không chỉ thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân địa phương mà còn có ý nghĩa giáo dục truyền thống cho thế hệ mai sau.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Không chỉ là công trình tôn giáo mang ý nghĩa tâm linh, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, di tích đã có những đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng của địa phương. Di tích là nơi công tác của ông Hoàng Thọ Đan Trưởng ty công an Nam Định trong thời kỳ 1950 - 1951. Nhà chùa còn có hầm bí mật cất giấu tài liệu và nuôi giấu cán bộ của Đảng, nhà nước.

Công trình kiến trúc Đền - Chùa Quế Phương là một quần thể kiến trúc rộng lớn, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Với lối kiến trúc nhiều gian, nhiều phòng, nhiều tòa kết hợp với cảnh quan môi trường thoáng đãng, rộng rãi đã mang lại cho di tích một dáng vẻ bề thế mang đầy đủ yếu tố cổ truyền và hiện đại hiếm thấy ở các di tích trong vùng.

Đặc biệt tại đây còn bảo lưu được nhiều cổ thư quý như: câu đối, đại tự, sắc phong, văn bia góp phần quan trọng cho việc nghiên cứu về lịch sử mảnh đất, con người nơi đây. Vào dịp lễ hội đầu xuân nơi đây còn lưu giữ được nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân gian tiêu biểu cho cộng đồng dân cư ven biển Nam Định.

Ngày 12/12/2003, Chùa Quế Phương được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

2. Chùa Phúc Quang - xã Hải Thanh

Chùa được xây dựng trong quá trình lấn biển lập ấp của An phủ sứ Vũ Duy Hoà và con cháu. Chùa được nhân dân Phúc Quang, tổng Kiên Trung đóng góp xây dựng lại vào năm Thành Thái thứ 8 (1906); nay thuộc thôn Thanh Quang- Hải Thanh. Chùa thờ Phật, thờ Mẫu và thờ cụ Vũ Duy Hoà cùng các Tổ dòng họ có công khai sáng đất Hải Thanh ngày nay.

.JPG)

.JPG)

Trong 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Chùa và những nhà sư trụ trì đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ngày12/12/2003, Chùa được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, vào đầu xuân, nhân dân địa phương có tổ chức lễ hội.

3. Chùa Phúc Hải - xã Hải Cường

Chùa do sư cụ Thanh Sơn Lại Sinh Chí trụ trì xây dựng vào năm 1905, Ất Tỵ, Thành Thái thứ 7, thuộc địa phận xã Trung Trại (nay thuộc xóm 2 Hải Cường). Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ “Tứ Tính- Cửu Tộc” là Thuỷ Tổ khai sáng Quần Anh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chùa là cơ sở cách mạng, nhà sư Thích Thanh Năng đi bộ đội, đã hy sinh, là liệt sỹ chống Pháp, nhà sư Thích Thanh Đạt trở thành sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam, sư cụ Thích Thanh Vỵ được chính phủ tặng bằng khen. Ngày 26/2/2003, Chùa được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm nhân dân địa phương mở hội vào đầu xuân.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

4. Đền Trần - thị trấn Thịnh Long

Đền Trần- thị trấn Thịnh Long được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, là một di tích có giá trị lịch sử. Đền thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng của dân tộc, nhà quân sự thiên tài của quốc gia Đại Việt thế kỷ XIII- XIV. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” nhân dân địa phương đã rước chân nhang Đức Thánh Trần trên đền Trần của thôn Phú Lễ, xã Hải Châu về thờ để tỏ lòng biết ơn sâu sắc với người anh hùng có công với dân, với nước.

Bên cạnh việc thờ phụng Đức Thánh Trần, còn thờ các vị tổ có công khai hoang lấn biển tạo lập làng xã.

Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền Trần- Thịnh Long đã trở thành địa điểm an toàn tin cậy cho các đơn vị bộ đội, du kích tập luyện và tham gia chiến đấu. Đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước Đền Trần- Thịnh Long là nơi chứa vũ khí, cứu chữa thương binh, tập kết bộ đội tham gia chiến đấu góp phần cùng Đảng bộ và nhân dân Thịnh Long được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ.

Công trình kiến trúc Đền Trần- thị trấn Thịnh Long được xây dựng theo phong cách cổ truyền mang đặc trưng tiêu biểu của lối kiến trúc thời Nguyễn trên vùng đất ven biển của tỉnh Nam Định.

Ngày 26/02/2003, Đền Trần- Thịnh Long được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

5. Nhà lưu niệm ông Vũ Văn Hiếu - xã Hải Anh

Ông Vũ Văn Hiếu sinh ngày 20/3/1907 tại ấp Văn Định xã Quần Phương Thượng, tổng Quần Phương, huyện Hải Hậu (nay là xóm 10, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu). Ông là một Đảng viên Cộng sản lão thành có tinh thần yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với Đảng và nhân dân. Ông hy sinh cuối tháng 3/1943 tại nhà tù Côn Đảo (xem phần Nhân vật lịch sử Văn hóa).

Để tưởng nhớ công lao của ông Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Quảng Ninh đã dựng tượng đài ông bằng đá nguyên khối tại phường Hà Tu, trường THPT Hà Tu mang tên trường THPT Vũ Văn Hiếu; tại nghĩa trang Hàng Dương- Côn Đảo đã xây dựng bức tượng “Trao áo” thể hiện tinh thần vì sự nghiệp cách mạng của những người Cộng sản Việt Nam. Tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đặt tên đường phố mang tên Vũ Văn Hiếu, tại quê hương nhân dân địa phương được sự ủng hộ của chính quyền các cấp đã tu sửa ngôi nhà nơi ông sinh ra và lớn lên thành nhà lưu niệm để các thế hệ mai sau luôn tự hào và học tập tinh thần anh dũng kiên cường của người chiến sỹ cộng sản kiên trung, người con thân yêu của Hải Hậu anh hùng. Nhà thơ Tố Hữu viết:

“Chết còn cởi áo cho nhau

Nắm cơm để lại người sau ấm lòng”

Ngôi nhà lưu niệm ông Vũ Văn Hiếu là một di tích lịch sử gắn liền với thời niên thiếu của ông. Trải qua bao quá trình hình thành và phát triển đến nay vẫn bảo tồn được giá trị lưu niệm đầu tiên về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ông Vũ Văn Hiếu. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định nói chung, nhân dân xã Hải Anh nói riêng sẽ mãi tự hào về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản kiên trung: ‘‘Sống vì Đảng mà chết cũng không rời Đảng”.

Ngày 07/01/2005, Nhà lưu niệm ông Vũ Văn Hiếu được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

6. Đền An Phủ Sứ Vũ Duy Hoà - xã Hải Phúc

Đền An phủ sứ Vũ Duy Hoà nằm ở thôn Thượng Phúc, xã Hải Phúc, được xây dựng vào thế kỷ XVII ngay sau khi An phủ sứ Vũ Duy Hoà qua đời. Đây là công trình tín ngưỡng được hình thành gắn với công cuộc khai hoang lấn biển của cư dân vùng Hà Lạn xưa, Hải Phúc ngày nay.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Đền thờ An phủ sứ Vũ Duy Hoà là một tổng thể kiến trúc hoàn chỉnh được xây dựng theo phong cách truyền thống. Tại đây vừa là nơi thờ tự, vừa là nơi đặt lăng mộ của An phủ sứ Vũ Duy Hoà và phu nhân, do vậy tạo được nhu cầu tâm linh rất lớn trong quần chúng nhân dân.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Bên cạnh đó, di tích còn lưu giữ được nhiều câu đối, đại tự có giá trị lịch sử, nhiều mảng chạm, chạm khắc công phu, nghệ thuật thể hiện trình độ tay nghề của các nghệ nhân xưa, góp phần tăng thêm giá trị của di tích.

Ngày 06/03/2006, Đền An phủ sứ Vũ Duy Hoà được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

7. Đền Hướng Thiện- xã Hải Long

Đền Hướng Thiện thuộc xóm 6 xã Hải Long, được xây dựng từ năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái 6 (1894). Đây là nơi thờ tự vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông là người có công đầu trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII. Do sự tỏa sáng về tài năng và nhân cách nên Hưng Đạo Đại vương đã được người đời sau ngưỡng mộ tôn lên bậc Thánh- Đức Thánh Trần và trở thành vị thánh bất tử trong tâm thức người Việt Nam. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, nhân dân địa phương đã rước chân nhang thờ ông tại di tích Đền Bảo Lộc (xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc) về thờ tự để tỏ lòng biết ơn sâu sắc người anh hùng dân tộc.

Trong phong trào cách mạng và kháng chiến, đền Hướng Thiện trở thành địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Đặc biệt, trong thời gian giặc Pháp chiếm đóng Hải Hậu (từ tháng 11/1949 đến tháng 2/1952) di tích là cơ sở hoạt động của các cán bộ bí mật gây dựng phong trào cách mạng tại miền 4 xã: Hải Long, Hải Sơn, Hải Phương, Hải Trung và huyện Hải Hậu.

Công trình kiến trúc đền Hướng Thiện đến ngày nay vẫn bảo lưu được những giá trị kiến trúc truyền thống: Tại di tích còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị như: Bia đá, sắc phong, kinh sách, tượng thờ… thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhân dân địa phương đối với việc bảo tồn những di sản văn hóa quý báu mà cha ông xưa để lại.

Ngày 27/9/2006, Đền Hướng Thiện được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

8. Chùa An Nghiệp xã Hải An

Chùa thôn An Nghiệp xã Hải An là nơi thờ Phật, ngoài ra còn thờ đức Thánh Tổ Dương Không Lộ một vị Quốc sư triều Lý có nhiều công lao đóng góp với đất nước và nhân dân và là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân trong vùng. Ngôi chùa được toạ lạc trong khuôn viên với diện tích rộng.

Hiện nay tại chùa An Nghiệp gồm các hạng mục công trình vẫn bảo lưu được kiến trúc gỗ truyền thống được nhiều thế hệ gìn giữ và bảo quản. Trong những năm qua, chùa được trùng tu, tôn tạo nhiều lần nhưng vẫn giữ được phong cách kiến trúc của người Việt.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Ngoài ra Chùa thôn An Nghiệp còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật, tượng thờ có nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa như: Câu đối, đại tự, chuông đồng, Sắc phong và hệ thống tượng thờ Phật, tượng Đức Thánh Tổ...

Trong hai hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Đế quốc Mỹ chùa thôn An Nghiệp là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của địa phương.

Hàng năm chùa thôn An Nghiệp thường xuyên tổ chức Lễ kỷ niệm ngày Phật đản (15/4), Lễ Vu Lan (15/7) và Lễ kỷ niệm ngày sinh Đức Thánh tổ (15/9) đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh của nhân dân.

Với những giá trị đó chùa An nghiệp đã được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2019.

9. Chùa Nam Anh xã Hải Sơn

Chùa Nam Anh tọa lạc tại xóm 1 xã Hải Sơn, được khởi dựng vào năm Đinh Mão, niên hiệu Bảo Đại 2 (1927). Đến năm Giáp Thân (1944), ngôi chùa được trùng tu lớn và các công trình phụ trợ được hoàn thành. Ngời đứng đầu hưng công, tổ chức xây dựng chùa là Cửu phẩm bách hộ Phạm Văn Đoan, Lý trưởng Đặng Đình Hòe. Cụ Nguyễn Văn Nghĩa hưng công xây dựng phủ Mẫu. Nên tại địa phương truyền tụng câu ca “Chùa Đoan, phủ Nghĩa”.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Ngôi chùa có quy mô 5 gian tam bảo quay hướng nam, sau là thượng điện thờ Tam thế và các vị La hán. Nối niền tao bảo là gác chuông. Tiếp nối 5 gian nhà tổ, phía đông nhà tổ là tăng phòng và nhà khách, phía tây là nhà tiếp linh, phía đông tam bảo là phủ Mẫu. Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc chùa còn lưu giữu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị như: Bia, khánh đá, chuông đồng, hệ thống tượng gỗ...

Trong phong trào cách mạng chùa là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Đặc biệt giai đoạn 2 năm 4 tháng chùa nơi nơi hội họp của dân quân du kích, là trạm giao liên, trong chùa có hầm bí mật nuôi dấu cán bộ, là kho vũ khí của Trung đoàn 46...

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Hàng năm tại chùa diễn ra nhiều ngày lễ như: Lễ Phật Đản ngày 14/4 âm lịch, lễ Vu lan 15/7 âm lịch, và các ngày Sóc, Vọng...Đặc biệt lễ hội lớn nhất được chùa và nhân dân tổ chức hàng năm vào trung tuần tháng Giêng. Chùa được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2013.

10. Đền An Phú- xã Hải Phong

Đền An Phú là công trình kiến trúc tôn giáo được xây dựng trong quá trình khai hoang, lấn biển tạo lập làng xã của nhân dân địa phương. Ngôi đền đầu tiên được xây dựng vào năm 1835. Đến năm 1912 được trùng tu, trải qua thời gian, năm tháng, công trình đã được nhân dân đóng góp tiền của tôn tạo nhiều lần nhưng vẫn giữ được dáng vẻ kiến trúc truyền thống của dân tộc.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Đền An Phú là di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử, là nơi thờ tự tri ân công đức vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn mà tài năng và đức độ của ông đã được người đời sau ngưỡng mộ tôn vinh là Đức Thánh Trần.

Đền An Phú thờ dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ (1778- 1858), người có công tổ chức công cuộc khai hoang lập nên tổng Ninh Nhất vào năm 1829. Di tích còn là nơi thờ tổ lập làng Trần Xuân Khánh, người đã theo Nguyễn Công Trứ tổ chức nhân dân khai khẩn lập nên ấp An Phú (nay là thôn An Phú, xã Hải Phong).

Tín ngưỡng thờ các vị thần ở đây vừa tạo nên sức mạnh tinh thần cho những người đi khai hoang dựng xây quê mới, vừa thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân địa phương. Trong quá trình bảo tồn và phát triển, đền An Phú đã trở thành địa điểm có nhiều mối liên quan đến lịch sử hình thành làng xã. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đền An Phú là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương, góp phần vào thành tích chung của quê hương Hải Phong anh hùng. Tại di tích hiện còn lưu giữ nhiều di vật, cổ vật có giá trị như: Sắc phong, bài vị, câu đối, tượng thờ…

Ngày 02/9/2006, đền An Phú được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa.

11. Đền Chùa Hải Tĩnh xã Hải Tân.

Đền, chùa Hải Tĩnh tọa lạc tại xóm Phạm Tăng xã Hải Tân, là nơi thờ Trần Hưng Đạo và thờ phật, ngoài ra còn thờ vị tổ sư pháp danh là Thích Thanh Khái, thế danh là Nguyễn Ân Quang. Đền, chùa Hải Tĩnh ban đầu có tên là đền Tam Thánh được xây dựng vào năm 1838, gồm 3 gian, bộ khung bằng gỗ, mái gắn ngói nam. Do sự tàn phá của thiên nhiên, nhiều hạng mục công trình của đền xuống cấp nghiêm trọng. Từ năm 1942 đến năm 1946 nhà sư trụ trì Thích Thanh Khái đã vận động nhân dân xây dựng ngôi đền và xây thêm 3 gian bái đường làm nơi thờ phật. Năm 2010, chính quyền và nhân dân địa phương, cùng sư trụ trì Thích Thanh Trúc đã kêu gọi các tín đồ phật tử và nhân dân khắp nơi phát tâm công đức xây dựng mới ngôi chùa với khuân viên như hiện nay.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Gắn liền với quá trình phát triển của cách mạng, Đền, chùa Hải Tĩnh là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Năm 1946 tại đền, chùa Hải Tĩnh, Hội Nông dân cứu quốc được thành lập, ngoài ra còn là nơi thành lập Trung đội tự về gồm 50 người, đền, chùa còn là nơi giao quân, đào hầm bí mật nuôi dấu bộ đội, du kích và cán bộ cách mạng của huyện về hoạt động. Trong kháng chiến chống Mỹ đền, chùa là kho vũ khí, lương thực cho chiến trường. Đã có nhiều nhà sư tu tại chùa đã “cởi áo cà sa” lên đường nhập ngũ và đã anh dũng hi sinh...

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Hàng năm đền, chùa Hải Tĩnh tổ chức các ngày lễ gồm: Phật Đản ngày 14/4; Vu Lan ngày 15/7, các ngày Sóc, Vọng...và ngày kỵ ĐứcThánh Trần ngày 20/8 Âm lịch. Đây là ngày lễ hội có ý nghĩa quan trọng được chính quyền, nhà chùa và nhân dân tổ chức long trọng nhất trong năm. Đền chùa Hải Tĩnh được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2016.

12. Đền Chùa Thiên Biên xã Hải Thanh

Đền chùa Thiên Biên tọa lạc tại xóm Xướng Cau xã Hải Thanh với quy mô bao gồm: Chùa chính là nơi thờ phật, phủ thờ mẫu và đền thờ Đức Thánh Triệu Quang Phục. Đền chùa Thiên Biên được xây dựng năm Cảnh Hưng thứ 3 (1742).

Ban quản lý di tích đền chùa Thiên Biên cùng nhân dân, các nhà hảo tâm và các tín đồ đã đóng góp nhiều công sức trùng tu, tôn tạo gìn giữ nét đẹp di sản văn hóa và cũng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh trong vùng.

Hằng năm cứ đến rằm tháng Giêng và tháng Tám Âm lịch nhân dân trong vùng và các tín đồ khắp nơi lại tụ họp về dâng hương lễ phật và tưởng nhớ công lao to lớn của người Anh hùng dân tộc Triệu Quang Phục cùng các vị tổ. Chùa được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2013.

13. Đền Đại An xã Hải Vân

Đền Đại An tọa lạc tại xóm 6, xã Hải Vân. Theo tư liệu lịch sử và văn bia “Văn chỉ thạch bi ký”, niên hiệu Tự Đức 12 (1859) nhân dân thôn Thái Hòa do Tiên chỉ Bùi Vũ Cát, Xã trưởng Đinh Viết Khuê; Đỗ Viết Thuyên; Cai xã Bùi Viết Nhâm; Xã trưởng Mai Viết Tải...Bản xã Cựu Lý trưởng Đỗ Viết Tỉnh đã đứng lên vận đông nhân dân góp công, góp sức xây dựng Đền ĐẠi An để thờ Đức thánh Triệu Việt Vương.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Ngôi đền trước đây được xây dựng bằng gỗ lim theo kiểu “Nội công ngoại quốc” gồm 3 gian tiền đường, ở giữa là thiêu hương, hai bên là ống muống, hậu cung 3 gian. Đến năm 1978, do thiên tai bão lũ tàn phá, một phần của công trình bị đổ nát, nhân dân buộc phải hạ giải. Năm 1993, dưới sự huy động của ông Đặng Ngọc Cừu, Đặng Kim Chi, Mai Công Đăng, Cao Xuân Thu cùng những nhà hảo tâm, nhân dân xây dựng lại phần trung đường và tiền đường với lối kiến trúc như hiện nay trên khuân viên 1180m2.

Gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của làng, xã, di tích Đền Đại An đã trở thành nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và có những đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của địa phương trong sự nghiệp đấu trang giành độc lập dân tộc.

Hàng năm lễ hội Đền Đại An được tổ chức 3 kỳ: Lễ mùa Xuân, lễ kỷ niệm ngày sinh (mồng 6 tháng Giêng) và lễ kỷ niệm ngày mất của Đức thánh Triệu Việt Vương. Đền Đại An được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2013.

14. Từ Đường Tổ Lại Xuân Không - xã Hải Trung

Từ đường Tổ Lại Xuân Không nằm trên địa bàn xóm 15, xã Hải Trung, được xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ XIX. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, từ đường đã được xây dựng thêm nhiều hạng mục công trình. Đến niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1896) từ đường được hoàn chỉnh cho đến ngày nay với mục đích để con cháu tỏ lòng tri ân công đức của Tổ Lại Xuân Không; người đã có nhiều công lao trong công cuộc khai hoang lấn biển, xây dựng và củng cố đất Quần Anh. Được triều đình nhà Nguyễn ban sắc phong “Dực bảo trung hưng, linh phù tôn thần”; được nhân dân Hải Hậu liệt vào hàng đầu trong “Cửu tộc” đã có công lớn cùng “Tứ tính” tạo dựng nên mảnh đất Quần Anh xưa, Hải Hậu ngày nay.

Từ đường Tổ Lại Xuân Không là công trình kiến trúc cổ quy mô, mang đậm đường nét kiến trúc nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Tại đây còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật có giá trị như sắc phong, văn bia, nhang án, câu đối, đại tự góp phần làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá của dân tộc.

Ngày 28/8/2008, Từ đường Tổ Lại Xuân Không được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

15. Từ Đường Thuỷ Tổ Hương Cống Trần Quốc Thể - xã Hải Phúc

Từ đường Thuỷ tổ Hương cống Trần Quốc Thể được xây dựng từ năm 1911 tại xóm 13 xã Hải Phúc. Đây là một công trình tín ngưỡng được hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc khai hoang mở đất, tạo lập làng xã và có giá trị về lịch sử. Công sức và thành quả lao động mà Hương cống Trần Quốc Thể cùng các tổ khai sáng và nhân dân đạt được đã góp phần quan trọng vào việc hình thành nên mảnh đất Hải Phúc giàu đẹp ngày nay.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Công trình kiến trúc Từ đường Thuỷ tổ Hương cống Trần Quốc Thể được xây dựng theo phong cách truyền thống. Tại đây vừa có nơi thờ phụng, vừa có lăng mộ là nơi an nghỉ vĩnh hằng của ông.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Di tích còn là nơi giữ gìn được nhiều câu đối, đại tự có nội dung ghi về công lao sự nghiệp của Hương cống Trần Quốc Thể đối với quê hương đất nước. Đặc biệt trong cung cấm còn có nhiều mảng chạm khắc tinh xảo, góp phần tăng thêm giá trị nghệ thuật cho di tích.

Ngày 12/01/2009, Từ đường Thuỷ tổ Hương cống Trần Quốc Thể được UBND tỉnh Nam Định công nhận là Di tích LSVH.

16. Từ đường Họ Lê xã Hải Phương

Họ Lê Đại Tôn nằm trên mảnh đất thuộc xóm 11 xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh nam Định.

Theo “Quần Anh địa chí” thì Tổ họ Lê gồm 3 anh em (Tổ Toàn Vinh; Tổ Huyền Đô; Tổ Đạo Thông) từ Tương Đông xuống mảnh đất Quần Anh phía nam Lạch Lác khai hoang lập ấp cách đây hơn 500 năm. Ban đầu các Tổ làm nghề đánh cá và làm muối kiếm kế sinh nhai đồng thời cùng với Tứ tổ (Trần Vu; Vũ Chi; Hoàng Gia; Phạm Cập) và các họ khác trong Cứu Tộc (Lại; Nguyễn; Bùi; Phan; Đoàn; Đỗ và Trần, Vũ phái khác) khai khẩn đất đai, mở mang ruộng đất khai cơ lập nghiệp. Sau khi 3 Tổ qua đời con cháu cùng nhau xây dựng từ đường ở phía tây chùa Lương. Năm 1804 đất Quần anh chia làm 3 xã và bắt đầu có sự phân tách, riêng Quý chi (Tổ Đạo Thông) con cháu vươn xa mở mang xuống phía nam đê Hồng Đức xã Quần Anh Hạ (Nay thuộc xóm 11 – Hải Phương). Năm 1835 con cháu họ Lê bắt đầu xây dựng ngôi từ đường (Lê Qúy Chi) ban đầu chỉ là nóc cỏ rường tre. Năm Quí Mùi (1883) xây hậu chẩm; Năm 1897 tiến hành đại tu xây tiền đường 3 gian bằng gỗ lim. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo đến nay ngôi từ đường vẫn giữ được kiến trúc cổ kính và truyền thống.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Trong kháng chiến chống Pháp từ đường là nơi nuôi dấu cán bộ và là nơi hoạt động bí mật của cách mạng. Ngày 16/10/1948 từ đường là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên xã Quần Phương – Tiền thân của Đảng bộ xã Hải Phương ngày nay.

Trong chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ từ đường là nơi sơ tán, cất dấu lương thực và vũ khí của nhà nước.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Tổng kết kháng chiến từ đường họ Lê được UBND tỉnh tặng Bằng khen có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây vào những ngày kỷ niệm trọng thể của địa phương, Đảng bộ và nhân dân xã Hải Phương luân tổ chức dâng hương nhớ ơn tiên tổ từ đường họ Lê. Từ đường được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2016.

17. Từ đường Họ Đoàn xã Hải Long

Từ đường họ Đoàn tọa lạc tại xóm 12 xã Hải Long trên khu đất với diện tích trên 400 m2. Khởi nguồn xây dựng từ năm 1827 chỉ là mái tranh, vách đất, đến năm 1811 được xây dựng lại bằng gỗ lim. Từ năm 1915 đến 2015 được trùng tu, mở rộng nhiều lần tạo lên tổng thể kiến trúc theo kiểu chữ Đinh trên diện tích 1.360 m2.

Theo các tư liệu để lại họ Đoàn xã Hải Long thuộc dòng Tứ tính, Cửu tộc góp công khai sáng đất Quần anh xưa, vào thế kỷ XVII họ Đoàn cùng các doàng họ khác tiến hành khai hoang, mở đất vùng phía Nam đê Hồng Đức từ Nhất trùng đến Tam trùng. Với những công lao mở đất, lập làng vào triều Nguyễn năm Khải Định thứ 9 (1924) Thủy tổ Đoàn Thanh Lộc được vua ban sắc phong “Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần”. Hiện nay tại từ đường vẫn còn lưu giữ được rất nhiều hiện vật có giá trị như: Tượng thờ, khám thờ, nhang án, bia đá, cùng với gia phả, hoành phi, câu đối, bài vị...

Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ các thế hệ con cháu trong dòng họ đã góp công, góp sức hòa cũng cả nước chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hàng năm cứ vào ngày 15,16 tháng 11 âm lịch con cháu dòng họ lại tụ hội về từ đường giỗ tổ để tưởng nhớ công lao to lớn của các Thủy tổ, cùng với đó kết hợp phát thưởng khuyến học để động viên con cháu không ngừng học tập phấn đấu vươn lên góp phần xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp, văn minh. Từ đường được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2019.

18. Từ đường Họ Hoàng xã Hải Sơn

Từ đường họ Hoàng Đại Tông tọa lạc tại xóm 7, xã Hải Sơn huyện Hải Hậu trên khu đất với diện tích trên 720 m2. Từ đường họ Hoàng là nơi thờ Thủy Tổ Hoàng Gia (Một trong 4 vị Thủy Tổ có công cùng với các Thủy Tổ Trần vu, Vũ Chi, Phạm Cập khai hoang bãi bồi Lạch Lác, lấn biển thành lập đất Quần Anh xưa- Hải Hậu ngày nay). Năm 1830-1841 thời vua Minh Mạng, cụ tổ kế thành dòng họ Hoàng là Hoàng Đại Thành (người con trai thứ 5 của Thủy tổ Hoàng Gia) đã dời quê cha đất tổ Quần Cường- Hải Trung về phía nam, nơi bãi biển đất bồi phì nhiêu màu mỡ chọn vùng đất Ngũ Trùng là nơi tọa lạc để lập ấp, phát triển dinh điền cho con cháu mai sau. Từ năm 1864-1869 thời vua Tự Đức tổ họ Hoàng cùng với các tổ dòng họ Trần, Lê, Vũ cùng nhau chung sức khai khẩn đất đai, lập làng, dựng ấp nay là vùng đất xóm 7, xã Hải Sơn, huyện Hải Hậu. Từ đây con cháu dòng họ đã lập từ đường lúc đầu chỉ bằng vách đất, thanh tre, lứa để thờ phụng. Đến năm Tân Hợi 1911- thời vua Duy Tân con cháu trong dòng họ chung sức xây dựng ngôi từ đường 3 gian hướng tây nam. Năm Quý Mùi 1943 thời Bảo Đại con cháu trong dòng họ xây dựng lại ngôi từ đường hướng đông gồm tiền đường và hậu chẩm theo phong cách kiến trúc của người Việt.

Chùa ở làng vú xá gọi là gì năm 2024

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ đường là nơi hội họp của dân quân du kích, là cơ sở cách mạng của địa phương. Từ năm 1955 đến 1957 từ đường là cơ sở lớp bình dân học vụ. Năm 1964-1975 từ đường dòng họ là kho chứa đạn pháo, vũ khí của trung đoàn 46 thuộc Quân khu III.

Năm 1972 sau nhiều lần ném bom của Đế quốc Mỹ từ đường họ Hoàng đã bị sập hư hỏng toàn bộ hậu chẩm, đồ thờ tự và sắp phong cũng bị cháy theo. Trải qua năm tháng con cháu trong họ không ngừng góp công sức xây dựng lại từ đường khang trang cho tới ngày nay. Hiện nay từ đường vẫn còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật có giá trị như ngai thờ, bát hương, câu đối, đại tự...

Hàng năm cứ đến ngày 07 tháng Giêng âm lịch con cháu trong họ lại tụ hội về giỗ tổ, kết hợp phát thưởng khuyến học để động viên con cháu không ngừng học tập, phát quà từ thiện nhân đạo cho những người có hoàn cảnh khó khăn, xây dựng quê hương đất nước. Từ đường được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng là di tích LSVH cấp tỉnh năm 2021.