Đánh giá của gardner về camera năm 2024

GS Howard Gardner cho rằng sáng tạo có thể là những phát minh lớn lao hay chỉ nhỏ nhặt như việc trẻ vẽ nguệch ngoạc lên cánh tủ lạnh. Ngoài ra, sáng tạo không chỉ gắn với nghệ thuật mà còn có trong nhiều hoạt động trí tuệ và thể chất khác.

Theo ông, yếu tố cốt lõi để có được sự sáng tạo là một môi trường nuôi dưỡng cho những điều mới mẻ. Ngược lại, nếu ở nơi mà bất cứ khi nào làm điều gì đó mới lạ bạn đều nhận phải sự phản đối kịch liệt, thì chắc chắn khó có sự sáng tạo.

Với học sinh, các em sẽ khó lòng sáng tạo nếu phụ huynh và giáo viên không thật sự đề cao tố chất này. Tương tự, nếu ở trường và ở nhà, các em liên tục bị khẽ tay khi làm sai hoặc khi thử những cái mới, chúng cũng không thể nào phát huy tính sáng tạo.

Giới hạn bản thân trong những khuôn mẫu là một rào cản khác. Bạn chuyên về các môn khoa học, kỹ thuật không có nghĩa bạn không được phép đặt câu hỏi và tìm hiểu sâu hơn về các ngành kinh tế, xã hội…

GS Howard Gardner cho rằng ngoài môi trường nuôi dưỡng cho những điều mới mẻ, khi bồi dưỡng sự sáng tạo cho học sinh rất cần cân bằng giữa cái "tôi" và cái "ta". Trong trường học, trẻ sẽ không thể phát huy các sáng kiến mới nếu thiếu đi bạn bè và thầy cô cũng năng động và có tinh thần trách nhiệm cao.

Sự sáng tạo nên đi liền với trách nhiệm xã hội. GS Howard Gardner cho rằng việc học không chỉ đơn giản là việc ngồi trên ghế nhà trường mười mấy, hai mươi năm chỉ để có công việc tốt, mà còn để theo đuổi những mục đích vì xã hội.

"Một nền giáo dục tiến bộ là nơi trí tuệ cá nhân được phát triển một cách tự do, kết hợp với ý thức mạnh mẽ về sứ mệnh đối với cộng đồng, xã hội và thế giới xung quanh", ông Gardner nói.

GS Howard Gardner là cha đẻ của thuyết đa trí thông minh. Theo ông, có thể phân chia thông minh ra gồm 7 loại, bao gồm: trí thông minh ngôn ngữ, logic toán học, hình ảnh không gian, âm nhạc, vận động thể chất, tương tác cá nhân, nội tâm.

Theo đó, con người luôn có tiềm năng ở những lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, những đứa trẻ nên được trân trọng và nâng niu với từng thế mạnh của mình, thay vì chỉ đánh giá độ thông minh của chúng thông qua khía cạnh phát triển ngôn ngữ hay khả năng toán học.

"Cuộc đời không công bằng với tất cả. Một số người có sẵn tiềm năng lớn hơn về mặt di truyền để trở thành nhà soạn nhạc, vận động viên, nhà vật lý hoặc nhà thơ. Nhưng nhìn chung, bất kỳ ai cũng có thể cải thiện trí thông minh của mình nếu họ được truyền động lực, được giáo dục tốt, hoặc nếu đó là điều xã hội đang quan tâm", GS Gardner chia sẻ.

Tại Việt Nam, Giáo sư Sử học Dương Trung Quốc cùng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã công nhận sự đúng đắn của lý thuyết này. Đặc biệt đối với nhiều bậc cha mẹ lâu nay có quan niệm sai lệch về trí thông minh của trẻ thì giờ đây cần có sự thay đổi.

Năm 1983, tiến sĩ Howard Gardner – một nhà tâm lý học nổi tiếng của Đại học Harvard- đã xuất bản một cuốn sách có nhan đề “Frames of Mind” (tạm dịch “Cơ cấu của trí tuệ”), trong đó ông công bố các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh (Theory of Multiple Intelligences ).

1. Trí thông minh logic- toán học: Đây là vùng phải làm với logic, trừu tượng, quy nạp, lập luận suy diễn, và những con số. Trong khi người ta thường cho rằng những người có trí thông minh này thường nổi trội trongnhững môn như: toán học, cờ vua, lập trình máy tính và các hoạt động trừu tượng hoặc những con số, nơi khả năng toán học ít hơn khả năng suy luận. Đây cũng là vùng nhận dạng mẫu trừu tượng, tư duy khoa học và điều tra, và khả năng để thực hiện các tính toán phức tạp.

2. Trí thông minh không gian: Đây là vùng phải làm việc với những tầm nhìn và phán đoán không gian. Những người có trí thông minh thị giác-không gian mạnh mẽ thường rất giỏi trong việc hình dung và tinh thần với đối tượng thao tác. Họ có một trí nhớ thị giác mạnh mẽ và thường có khuynh hướng nghệ thuật. Những người có trí thông minh thị giác-không gian cũng thường có một cảm giác rất tốt về phương hướng, ngoài ra họ cũng có thể có sự phối hợp tay và mắt rất tốt, mặc dù điều này thường được xem như là một đặc trưng của vận động cơ thể.

3. Trí thông minh vận động: Đây là vùng dành cho những chuyển động cơ thể. Trong vùng này, con người thường thành thạo trong việc hoạt động thể chất như thể thao hay khiêu vũ và thường thích các hoạt động phong trào. Họ có thể thưởng thức diễn xuất hay biểu diễn, và nói chung họ rất giỏi trong việc xây dựng và làm mọi thứ. Họ thường học tốt nhất khi thể chất làm một cái gì đó, chứ không phải đọc hoặc nghe về nó. Những người có trí thông minh vận động cơ thể, mạnh mẽ dường như sử dụng những gì có thể được gọi là bộ nhớ cơ bắp; tức là, họ nhớ những điều thông qua cơ thể của họ, chứ không phải bằng lời nói (bộ nhớ bằng lời nói) hoặc hình ảnh (bộ nhớ trực quan). Những vận động đòi hỏi các kỹ năng và sự khéo léo, độ dẻo dai, cũng như cần thiết cho khiêu vũ, thể thao, phẫu thuật, làm thủ công, vv... Nghề nghiệp mà phù hợp với những người có trí thông minh này bao gồm các vận động viên, vũ công, diễn viên, diễn viên hài, nhà xây dựng, và thợ thủ công

4.Trí thông minh tương tác giao tiếp: Đây là khu vực phải làm việc với sự tương tác giữa người với người. Những người trong nhóm này thường hướng ngoại và có đặc điểm là luôn nhạy cảm với những tâm trạng, cảm xúc, tính khí, động cơ của người khác, và họ có khả năng hợp tác, làm việc với người khác như một phần của nhóm. Họ giao tiếp tốt và dễ dàng đồng cảm với người khác, và họ có thể là những người lãnh đạo hoặc những người đi theo. Họ thường học tốt nhất bằng cách làm việc với người khác và thường thích thú với các cuộc thảo luận và tranh luận

5.Trí thông minh nội tâm: Đây là vùng phải làm việc hướng nội và phản chiếu năng lực của chính chủ thể. Những người có trí tuệ mạnh về điều này thường là người hướng nội và thích làm việc một mình. Họ có ý thức tự giác cao và có khả năng hiểu được cảm xúc, mục tiêu và động cơ của bản thân. Họ thường ham thích theo đuổi những tư tưởng cơ bản cũng như triết học vậy. Họ học tốt nhất khi được phép tập trung vào chủ đề của mình. Thường họ có một sự cầu toàn cao khi gắn với trí tuệ này

6. Trí thông minh thiên nhiên: Bao gồm cả việc hiểu biết về thế giới tự nhiên như động thực vật, chú ý những đặc điểm của từng loài và phân loại chúng. Nói chung, nó bao gồm cả việc quan sát sâu sắc về môi trường tự nhiên xung quanh và có khả năng để phân loại những thứ khác nhau tốt. Nó có thể thực hiện bằng cách khám phá thiên nhiên, làm cho bộ sưu tập cho các loài, nghiên cứu chúng, và nhóm chúng lại với nhau. Có kỹ năng sắc bén về cảm giác - tầm nhìn, âm thanh, mùi, vị và xúc giác. Quan sát một cách sắc bén về sự thay đổi của tự nhiên và các mối liên hệ giữa các mẫu.

7. Trí thông minh ngôn ngữ:

Trí thông minh bằng lời nói và ngôn ngữ thể hiện bằng những từ ngữ, cách nói hoặc viết. Họ thường giỏi đọc, viết, kể chuyện, và ghi nhớ từ và ngày tháng. Họ có xu hướng học tốt nhất bằng cách đọc, ghi chú, lắng nghe bài giảng, và qua thảo luận và tranh luận. Họ cũng thường xuyên xử dụng kỹ năng giải thích, giảng dạy và các bài diễn văn hay nói có sức thuyết phục. Những người có trí thông minh bằng lời nói-ngôn ngữ học ngoại ngữ một cách dễ dàng vì họ có trí nhớ từ cao và thu hồi và khả năng hiểu và vận dụng cú pháp và cấu trúc ..

8. Trí thông minh âm nhạc: Đây là vùng trí tuệ phải làm với các giai điệu, âm nhạc và thính giác. Những người có trình độ cao về âm nhạc thường rất nhạy với âm thanh, nhịp điệu, và âm vực. Họ thường có khả năng rất tốt và thậm chí tuyệt đối về ca hát, chơi nhạc cụ và sáng tác nhạc. Khi có một thành phần trí tuệ âm nhạc này, những người mạnh nhất có thể học tốt nhất thông qua bài giảng. Ngoài ra, họ thường sử dụng bài hát hoặc giai điệu để học hỏi và ghi nhớ thông tin, và có thể thực hiện tốt nhất những màn biểu diễn âm nhạc

Lý thuyết của Gardner đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trên, tuy nhiên, sẽ có kiểu thông minh trội hơn trong mỗi người. Bên cạnh đó, Gardner đã chỉ ra rằng trong trường học thông thường chỉ đánh giá một học sinh thông qua 2 loại trí thông minh là trí thông minh về ngôn ngữ và trí thông minh về logic/toán học, và điều này là không chính xác. Trường học đã bỏ rơi các em có thiên hướng học tập thông qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp…đồng thời lèo lái tất cả mọi học sinh đi theo cùng một con đường và cùng chịu chung một sự đánh giá và phán xét. Nhiều học sinh đã có thể học tập tốt hơn nếu chúng được tiếp thu kiến thức bằng chính thế mạnh của chúng.

Genius Print là thương hiệu Sinh trắc học dấu vân tay hàng đầu Việt Nam được sự chứng nhận và bảo trợ của Trung tâm Sinh trắc học dấu vân tay Châu Á ADRC và Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam. Sinh trắc học dấu vân tay là phương pháp phân tích mối liên hệ giữa dấu vân tay và não bộ từ đó phát hiện những tố chất và tính cách bẩm sinh của con người. Bài báo cáo phân tích về Sinh trắc học dấu vân tay là bức tranh từ chi tiết đến toàn diện về các chỉ số IQ, EQ, AQ, CQ..., 8 loại hình thông minh của con người...

Nếu bạn quan tâm đến Sinh trắc học dấu vân tay hay quan tâm đến những tính cách và tố chất bẩm sinh của bản thân mình thì hãy liên hệ ngay với chúng tôi để nhận được sự tư vấn và hỗ trợ tốt nhất !