Để đánh giá về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nhóm nước người ta dựa vào các chỉ số

Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công. Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 1,9 USD/ngày) giảm mạnh từ hơn 32% năm 2011 xuống còn dưới 2%.

Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch COVID-19.Tăng trưởng GDP giảm xuống 2,58% vào năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta nhưng dự kiến ​​sẽ phục hồi lên 5,5% vào năm 2022.

Y tế đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 năm 1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 năm 1990 lên 75,4 năm 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu nhập tương đương. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung bình khu vực và trung bình thế giới, trong đó 87% dân số có bảo hiểm y tế.

Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính đến năm 2019, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 51% năm 2020.

Việt Nam đã đặt ra những tầm nhìn phát triển tham vọng hơn, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Để làm được điều này, nền kinh tế cần tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm khoảng 5% trên đầu người trong 25 năm tới. Việt Nam cũng hướng tới mục tiêu phát triển theo hướng xanh hơn, bao trùm hơn đồng thời đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050.

Tương lai của Việt Nam đang được định hình bởi một vài xu thế lớn. Dân số đang già đi nhanh chóng, thương mại toàn cầu đang suy giảm, trong khi đó suy thoái môi trường, các vấn đề biến đổi khí hậu và tự động hóa ngày gia tăng. Tiến trình của các xu hướng này càng bị đẩy nhanh bởi đại dịch COVID-19.

Theo cập nhật Báo cáo Chẩn đoán Quốc gia mới nhất của Ngân hàng Thế giới, để vượt qua những thách thức này và đáp ứng các mục tiêu phát triển, Việt Nam cần cải thiện đáng kể hiệu quả thực thi chính sách, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, môi trường, chuyển đổi kỹ thuật số, giảm nghèo/anh sinh xã hội và cơ sở hạ tầng.

Lần cập nhật gần nhất:14 Tháng 4 Năm 2022

Các tiêu chí để đánh giá một quốc gia phát triển bao gồm thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ và mức sống cao cùng một số phép đo khác liên quan đến chất lượng cuộc sống.

Thuật ngữ các nước phát triển được sử dụng để chỉ những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người (thu nhập bình quân của mỗi người dân) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người cao, mức sống cao (chất lượng, số lượng hàng hóa và dịch vụ sẵn có trong xã hội), tuổi thọ cao (tuổi thọ trung bình dự kiến của công dân tại một quốc gia) và các phép đo khác liên quan đến chất lượng cuộc sống của cá nhân.

Tuy nhiên, các tiêu chí phải có sự tương quan thích hợp. Một quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhưng cơ sở hạ tầng kém và bất bình đẳng về thu nhập cũng không được xem là nền kinh tế phát triển.

Mặt khác, những yếu tố phi kinh tế như chỉ số phát triển con người (HDI), trình độ học vấn, tỷ lệ biết chữ và trình độ chăm sóc sức khỏe cũng phản ánh mức độ phát triển của một quốc gia.

Để đánh giá về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nhóm nước người ta dựa vào các chỉ số

Bình quân thu nhập đầu người là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của quốc gia. Ảnh: Reuters.

Thế giới thứ nhất

Những nước phát triển còn được gọi là các quốc gia thuộc Thế giới thứ nhất, các nước công nghiệp phát triển, các nền kinh tế tiên tiến... Hầu hết quốc gia phát triển nằm ở Tây bán cầu, bao gồm Mỹ, Canada và các quốc gia Tây Âu. Australia và New Zealand cũng là những quốc gia phát triển.

Đa số nước châu Á không phải là nền kinh tế phát triển, nhưng một số ít đã đáp ứng được các tiêu chí cần thiết như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Các đặc khu hành chính của Trung Quốc bao gồm Hong Kong và Macau cũng được xếp vào nhóm nền kinh tế phát triển.

Khái niệm về các nước phát triển xuất hiện lần đầu trong Chiến tranh Lạnh. Năm 1952, nhà nhân chủng học và sử học người Pháp Alfred Sauvy (1898-1990) đặt ra thuật ngữ Thế giới thứ ba để mô tả tình trạng của những quốc gia nghèo khó trên thế giới.

Khi thuật ngữ này phổ biến, mọi người bắt đầu sử dụng cụm từ Thế giới thứ nhất để chỉ Mỹ và châu Âu, Thế giới thứ hai cho Liên Xô và các đồng minh. Theo thời gian, những thuật ngữ này trở nên lỗi thời. Các thuật ngữ quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển, vốn tập trung nhiều hơn vào yếu tố kinh tế, được sử dụng nhiều hơn.

Để đánh giá về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nhóm nước người ta dựa vào các chỉ số

Một tiêu chí đánh giá quốc gia phát triển là tuổi thọ trung bình dự kiến của công dân. Ảnh: Reuters.

Theo trang Investopedia, mặc dù không có quy chuẩn nghiêm ngặt để đánh giá một quốc gia phát triển hay đang phát triển, tiêu chí phổ biến nhất được sử dụng để xác định là GDP bình quân đầu người.

Một số nhà kinh tế quốc tế đánh giá GDP bình quân đầu người từ 12.000-15.000 USD/năm là đủ để đánh giá một quốc gia vào nhóm phát triển. Tuy nhiên, một số khác cho rằng mức GDP bình quân đầu người tối thiểu của một quốc gia phát triển phải trên 25.000-30.000 USD.

Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), GDP bình quân đầu người của một số quốc gia phát triển tiêu biểu thế giới năm 2019 như Mỹ là 65.111 USD/năm, Australia 54.907 USD/năm, Đức 46.259 USD/năm, Nhật Bản 40.847 USD/năm. Dữ liệu cho thấy GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2019 là 2.715 USD/năm, tăng 5,79% so với năm 2018.

Chỉ số phát triển con người

Như vậy, GDP bình quân đầu người của Mỹ cao gấp 24 lần của Việt Nam. Con số này của Đức, Singapore và Nhật Bản cao hơn Việt Nam lần lượt 17, 24, 14 lần. Trong số các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế chuyển đổi trong khu vực, GPD bình quân đầu người của Trung Quốc là 10.262 USD/năm, Malaysia 11.415 USD/năm và Thái Lan 7.808 USD/năm, tức cao gấp Việt Nam từ 4-5 lần.

Tuy nhiên, một nền kinh tế phát triển không chỉ được đánh giá dựa trên GDP bình quân đầu người. Điển hình là trường hợp của Qatar. Đây là một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất thế giới (69.688 USD vào năm 2019).

Tuy nhiên, nước này bị Liên Hợp Quốc xếp vào nhóm nền kinh tế đang phát triển. Nguyên nhân là quốc gia này có sự bất bình đẳng về thu nhập, thiếu cơ sở hạ tầng quan trọng, ít cơ hội giáo dục cho công dân có thu nhập trung bình và thấp.

Một yếu tố khác được sử dụng để xác định quốc gia có phát triển hay không là chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ số này xem xét ba yếu tố, bao gồm tỷ lệ biết chữ, mức độ tiếp cận giáo dục và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được định lượng thành con số chuẩn hóa từ 0 đến 1. Hầu hết nước phát triển có chỉ số HDI trên 0,8.

Để đánh giá về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nhóm nước người ta dựa vào các chỉ số

10 quốc gia và vùng lãnh thổ có chỉ số HDI cao nhất thế giới trong năm 2019. Ảnh: Human Development Report Office 2019.

Năm 1993, Liên Hợp Quốc bắt đầu sử dụng xếp hạng HDI để xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ theo chất lượng cuộc sống của công dân. Năm 2019, Na Uy được xếp hạng cao nhất với chỉ số HDI 0,954. Theo sau lần lượt là Thụy Sĩ (0.946), Ireland (0,942) và Đức (0,939).

Năm 2019, Việt Nam tiến sát mức cao về HDI và nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng HDI cao nhất trên thế giới. Với chỉ số HDI 0,693, Việt Nam chỉ cần thêm 0,007 điểm để tiến vào nhóm những quốc gia có HDI ở mức cao.

Đối với những quốc gia khó phân loại hơn, các chuyên gia kinh tế còn xác định tình trạng phát triển thông qua những yếu tố xã hội khác như tuổi thọ của người dân hay tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Hầu hết nền kinh tế phát triển đều có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp hơn 10/1.000 trẻ và tuổi thọ trung bình của người dân đạt từ 75 tuổi trở lên.

Dựa vào các tiêu chí (thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ tử vong của trẻ em,…) hoặc chỉ số phát triển con người (HDI) người ta phân loại các nước trên thế giới thành hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển.

A. Thu nhập bình quân đầu người.

B. Tỉ lệ tử vong của trẻ em.

C. Chỉ số phát triển con người (HDI).

D. Cơ cấu kinh tế của từng nước.

Đáp án đúng D.

Để phân loại các quốc gia trên thế giới và đánh giá sự phát triển kinh tế – xã hội của từng nước, từng khu vực thì không dựa vào tiêu chí Cơ cấu kinh tế của từng nước.

Lý giải việc chọn đáp án D là do:

Các lục địa và các châu lục có các đặc điểm như sau:

+ Lục địa

– Lục địa là khối đất liền rộng hàng triệu ki lô mét vuông, có biển và đại dương bao quanh.

– Trên thế giới có 6 lục địa: Á – Âu, Phi, Bắc Mĩ, Nam Mĩ, Ô-xtrây-li-a và Nam Cực.

+ Châu lục

– Châu lục bao gồm phần lục địa và các đảo, quần đảo chung quanh (phân chia chủ yếu mang ý nghĩa lịch sử, kinh tế, chính trị).

– Trên thế giới có 6 châu: châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mĩ, châu Đại Dương và châu Nam Cực.

+ Các nhóm nước trên thế giới

– Trên thế giới có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.

– Dựa vào các tiêu chí (thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ tử vong của trẻ em,…) hoặc chỉ số phát triển con người (HDI) người ta phân loại các nước trên thế giới thành hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển.

Nhóm nước phát triển: thu nhập bình quân đầu người > 20 000 USU/năm, tỉ lệ tử vong trẻ em thấp, HDI từ 0,7 đến gần bằng 1.

Nhóm nước đang phát triển: thu nhập bình quân đầu người < 20 000 USU/năm, tỉ lệ tử vong trẻ em khá cao, HDI < 0,7.

Nhìn chung Thế giới chúng ta đang sống thật rộng lớn bởi:

+ Trên thế giới có tới 6 châu lục và 4 đại dương.

+ Địa bàn sinh sống của con người ngày càng mở rộng, con người đã có mặt trên tất cả các châu lục, trên các đảo ngoài khơi xa, vùng cực lạnh giá…

– Thế giới chúng ta đang sống thật đa dạng:

Các quốc gia và vùng lãnh thổ luôn có sự khác nhau về tự nhiên (địa hình, khí hậu, đất đai, sông ngòi, sinh vật…), về chế độ chính trị, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn hoá, về hình thức sản xuất, về trình độ văn minh, quan niệm sống và cả mức sống.

Do đó Người ta thường dựa vào các chi tiêu : thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ tử vong na trẻ em … hoặc chỉ số phát triển con người (HDI) để phân loại các quốc gia trên thế giới và đánh giá sự phát triển kinh tế – xã hội của từng nước, từng châu lục.