Em hay nhận xét về nhân vật tên quan phụ mẫu trong ván bản Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn

     Nhân vật viên quan phụ mẫu – một kẻ “lòng lang dạ thú” đã được nhà văn Phạm Duy Tốn khắc họa chân thực, rõ nét trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay”.     

     Để làm nên thành công của tác phẩm tự sự đặc biệt là truyện ngắn, nhân vật đóng một vai trò quan trọng và được coi là “chiếc chìa khóa vàng”. Nhân vật quan phụ mẫu đã góp phần thể hiện rõ nội dung, tư tưởng chính của tác phẩm. Nhận định trên đã khái quát một cách toàn diện, sâu sắc tính cách của tên quan. Để nhân vật bộc lộ rõ bản chất, nhà văn Phạm Duy Tốn đã xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là một đêm mưa gió tầm tã, khúc đê của làng bị “thẩm lậu”, nguy cơ vỡ, lũ lụt là rất cao, tính mạng của người dân đang bị đe dọa. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, quan phụ mẫu lại “vô trách nhiệm, hống hách, ham mê bài bạc, bỏ mặc đê vỡ”.     

     Nói về tên quan phụ mẫu, nhà văn không nêu rõ tên tuổi cụ thể, ngay tên làng, tên tổng cũng chỉ là những kí hiệu XXX, điều này cho thấy, tên quan phụ mẫu mang nghĩa khái quát, đại diện cho tất cả bọn quan lại, bọn tay sai thời bấy giờ. Quan phụ mẫu là cha mẹ của dân, phải lo cho dân mọi chuyện nhưng trong tình huống nguy cấp quan lại ung dung, chễm chệ ăn chơi, hưởng lạc cuộc sống xa hoa.     

     Trong khi người dân đang phải “gội gió tắm mưa” vất vả ngoài đê, hối hả “kẻ đào đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ…”. Ai nấy đều ướt như chuột lột, mệt lử, trăm lo nghìn sợ. Còn quan và bọn tay sai thì ngồi ung dung, chễm chệ trong đình, nơi an toàn và vũng chãi nhất. Xung quanh bọn chúng còn có rất nhiều những vật dụng sang trọng như đồng hồ vàng, hút thuốc bạc, dao chuôi ngà…, đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng. Với ngòi bút tài tình, Phạm Duy Tốn đã dựng nên 2 thế giới hoàn toàn khác nhau: một bên tăm tối, hối hả, nguy cấp; một bên sáng trưng tựa cung điện nguy nga. Mặc dù khoảng cách địa lí của hai thế giới đó không bao xa, chỉ “cách chừng bốn năm trăm thước, cũng ở trên mặt đê”. Từ đó, dần hé lộ bản chất của tên quan phụ mẫu.     

     Quan uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, tay trái dựa gối xếp, tay phải duỗi thẳng ra. Chỉ bằng vài nét phác họa, nhà văn đã gợi lên trong người đọc hình dáng của một tên quan đang ăn chơi, hưởng lạc chứ không phải một ông quan đang lo lắng, trằn trọc vì tính mạng của dân. Bản chất ăn chơi, hưởng thụ của quan cứ dần dần được bóc tách, vạch trần. Nhà văn đã sử dụng triệt để biện pháp liệt kê để làm rõ cuộc sống xa hoa, ăn chơi, hưởng lạc của tên quan. Trong khi dân mệt lử, cận kề cái chết thì hắn đang say mê chơi bài tổ tôm, ăn yến hấp đường phèn, trầu vàng, cau đậu, rễ tía, dùng đồng hồ vàng, dao chuôi ngà…toàn những thứ xa xỉ. Biện pháp đối lập khắc họa lên một cuộc sống vương giả, trọc phú giữa thời khắc nguy cấp, khốn cùng của con dân.     

     Nếu khi viết về dân, nhà văn sử dụng những câu cảm thán, trực tiếp bộc lộ nỗi niềm lo lắng, xót thương “Than ôi!...Lo thay! Nguy thay!...” thì khi viết về quan phụ mẫu, ông lại sử dụng giọng văn mỉa mai, châm biếm, sâu cay. “Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru”, đối với quan, dân là gốc, là điểm tựa nhưng tiếng “mặc” vang lên thể hiện thái độ vô trách nhiệm, không hề bận tâm, lo lắng của người được coi là cha mẹ của dân. Với quan, “một nước bài cao bằng mấy mươi đê lở ruộng ngập”, câu văn so sánh mà giọng mỉa mai, đau xót. Tính mạng của con người, không được lão quan ấy coi trọng như một ván bài vô tri vô giác.     

     Một mình quan phụ mẫu đang ăn chơi, hưởng lạc nhưng cũng có muôn vàn kẻ hầu, người hạ xung quanh phục dịch. Ngoài đê, tiếng trống ốc, tiếng tù và, tiếng người nhốn nháo, hối hả bao nhiêu thì trong đình lại tĩnh lặng bấy nhiêu. Bởi lẽ “trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng”. Chơi bài với quan ấy là một “hạnh phúc”, phải biết nhường quan, để quan thắng. Quan tha hồ quát mắng, sai khiến, chửi bới, dọa nạt lũ nha lệ, lính tráng khi chúng làm phiền cuộc chơi của quan. Chỉ qua vài nét phác họa, Phạm Duy Tốn đã dựng lên chân dung một tên quan phụ mẫu ham mê bài bạc, ăn chơi hưởng lạc, vô trách nhiệm với cuộc sống của người dân.     

     Với biện pháp tương phản kết hợp tăng cấp nhà văn Phạm Duy Tốn đã cho thấy bản chất đê tiện, xấu xa của tên quan “lòng lang dạ sói”. Cho dù hắn mặc kệ dân gội gió tắm mưa, ra sức bảo vệ đê nhưng khi nghe đê vỡ, tức là biết tình cảnh dân khốn cùng, rơi vào cái chết thì lẽ ra hắn phải có chút thay đổi. Nhưng không, dù “tiếng kêu vang trời dậy đất”, mọi người giật mình thì quan vẫn “điềm nhiên, lăm le” theo dõi quân bài. Tên quan phụ mẫu này thật sự là một kẻ không có lương tâm.     

     Đỉnh điểm khi có người báo đê vỡ, hắn còn cáu gắt “mặc kệ”, dọa nạt, rồi dửng dưng như không có chuyện gì xảy ra tiếp tục chơi bài và cười hả hê, sung sướng vì ù ván bài to. Trong khi đó, dân rơi vào cảnh nghìn sầu muôn thảm, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Hắn thật là một kẻ độc ác tàn nhẫn, không bằng loài cầm thú.     

     Để xây dựng thành công nhân vật quan phụ mẫu với bản chất, tính cách rõ nét xấu xa, độc ác, vô lương tâm, hống hách, lòng lang dạ sói, nhà văn đã sử dụng thành công phép tương phản, tăng cấp. Bên cạnh đó, sử dụng khéo léo, tinh tế thủ pháp liệt kê. Ngôn ngữ cá tính hóa rõ nét, giọng văn chế giễu, châm biếm, mỉa mai. Đó là những thành công đầu tiên, đặt nền móng cho việc xây dựng nhân vật truyện ngắn sau này.     

     Nhân vật quan phụ mẫu thể hiện giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm. Hình ảnh tiêu biểu cho một loại người, lớp người trong xã hội thời bấy giờ. Nhà văn càng căm ghét tên quan phụ mẫu bao nhiêu, càng thương xót cho số phận người dân bây nhiêu. Nhân vật tên quan phụ mẫu “lòng lang dạ thú” đã khẳng định tài năng của nhà văn Phạm Duy Tốn. Không chỉ thành công trong việc đổi mới lối viết, tác giả còn cho người đọc thấy chân dung của tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, mất nhân tính – đại diện cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ.     

     Như vậy, với nghệ thuật tương phản tăng cấp đặc sắc, Phạm Duy Tốn đã xây dựng thành công hình ảnh viên quan phụ mẫu, giúp người đọc cảm nhận được sâu sắc bộ mặt tàn ác của bọn cầm quyền, từ đó thêm cảm thông, thương xót trước cuộc sống lầm than của người dân trong xã hội phong kiến.

*) Bài này mình viết từ trước rồi nên trả lời nhanh chứ mình không chép mạng nhé!!!

CHÚC BẠN HỌC TỐT

“Nhân vật là trụ cột của truyện ngắn” (Tô Hoài). Qua nhân vật, nhà văn không chỉ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, thái độ yêu, ghét mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của mình.

Đến với truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, có thể nhận ra một trong những nhân vật chính, gửi gắm tư tưởng và tài năng của tác giả chính là hình ảnh viên quan phủ đi hộ đê. Ngòi bút miêu tả chi tiết, sinh động, khéo léo của nhà văn đã dựng lên chân dung điển hình của tầng lớp quan lại phong kiến những năm đầu thế kỉ XX.

Hình ảnh quan phủ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà mở đầu tác phẩm lại là cảnh hàng trăm nghìn dân phu “chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối phó với sức mưa to nước lớn . để bảo vệ lấy tính mạng gia tàu”. Chính trong cảnh tượng trăm dân đang ở cảnh màn trời chiếu đất ấy thì quan phủ đang ở đâu? ống kính nghệ thuật của nhà văn quay cận cảnh “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người lạ, đi lại rộn ràng”.

Còn “quan phụ mẫu” của chúng ta thì “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điều đóm”. Chỉ bằng vài nét phác họa khung cảnh đó, dáng điệu đó, ta đã có thể đoán được cuộc sống phong lưu, phú quý và thảnh thơi của quan phủ trong khi làm nhiệm vụ hộ đê.

Thêm nữa, ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống pôi chạm, ngoáy tai, lí thuốc, quản bút, tăm bông…”.

Nếu nói đồ vật thể hiện con người- chủ nhân của nó- thì có thể nói, qua những đồ vật xung quanh quan phủ, tác giả muốn bày ra lối số: hoa, hưởng thụ của quan phủ. Và chắc chắn, quan phủ tỏ rõ vẻ thung dung, thích thú trong chốn giường êm nệm ấm, với đầy đủ thức vật sang trọng và kẻ hầu người hạ xung quanh chờ để phục vụ hắn. Trong khi ngoài kia mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít trong cảnh “nước sôi lửa bỏng” thì “trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm”. Cái “tĩnh mịch, nghiêm trang” của chốn quan phủ đang tiến hành một “sự vụ quan trọng” là chơi tổ tôm.

Không chỉ miêu tả khung cảnh để làm nổi bật địa vị và tính cách nhân vật, tác giả còn tập trung miêu tả ngôn ngữ của nhân vật quan phụ mẫu. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng. Khi thì là lời ra lệnh quyền uy: “Điếu, mày!”.

Khi thì là lời phán truyền, giục giã với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”. Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ:

“Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:

– Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? … Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

………….

Đuổi cổ nó ra!”.

Vì sao quan lớn lại nổi giận đến thế? Thì ra là vì người dân quê kia dám xông vào đình, không biết phép tắc gì cả. Hơn nữa là vì kẻ quê kia đã làm gián đoạn cuộc chơi của quan, trong khi quan đang chờ bài ù. Cái tội của kẻ kia thật lớn! Nếu để mà vỡ thì quan sẽ “cách cổ”, sẽ “bỏ từ” chúng. Cơn “nổi giận lôi đình” kia của quan phụ mẫu hẳn khiến bao kẻ kinh sợ!

Và lại càng kinh sợ hơn là cái thản nhiên, lạnh lùng đến sỗ sàng, trơ cứng của quan phủ khi ngài quay vào, hỏi thầy để lại: “Thấy bốc con gì thế?”. Cứ như quan không nghe đến tin báo khẩn cấp của lũ dân đen con đỏ kia. Dường như với ngài, “một nước bài cao bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập!”, “ngài mà còn dở ván bài hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ”.

Đỉnh cao kịch tính của truyện là ở chi tiết kết truyện, khắc họa hình ảnh quan phủ khi bài của quan ù to:

“Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:

– Đây rồi! … Thế chứ lại! Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói:

– Ừ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”

Và “trong khi quan lớn ù oán bài to như thế thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ…”. Quả là một nghịch cảnh vừa đau thương, vừa đáng căm giận!

Như vậy, quan phụ mẫu hiện lên rõ nét trong tác phẩm không chỉ bộc lộ thái độ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn phơi bày bản chất tàn ác, bất nhân, “lòng lang dạ thú”. Là “cha mẹ dân” nhưng quan phủ lại coi tính mạng và tài sản của muôn dân không bằng một lá bài của hắn.

Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính xung đột, nguy cấp, đầy kịch tính để cho nhân vật tự bộc lộ thái độ và cách hành xử, Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cây bút trần thuật sắc sảo, chín chắn, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật văn chương hiện đại phương Tây thế kỉ XX.

Hơn hết, qua những nét khắc họa chân dung nhân vật quan phủ, nhà văn đã thể hiện thái độ căm giận, lên án gay gắt quan phủ, hay cũng chính là điển hình cho một bộ phận quan lại phong kiến nửa đầu thế kỉ XX, vừa vô trách nhiệm, vừa bất nhân, sẵn sàng chà đạp lên muôn dân lầm than để hưởng thụ cuộc sống xa hoa ích kỉ. Cái tựa đề “Sống chết mặc bay” của tác phẩm cũng chính là lời nói, là thái độ của quan phụ mẫu đối với người dân khốn cùng trong cảnh thiên tai địch họa, nước mất nhà tan.

Với Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn được ghi nhận là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc ở những năm hai mươi của thế kỉ XX, là người đặt nền móng vững chắc cho trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với những tác giả nổi bật như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng…

Và có thể nhìn thấy hình ảnh quan phủ trong truyện ngắn này trong những nhân vật quan lại phong kiến trong văn học hiện thực giai đoạn sau, trong những Bá Kiến, Nghị Hách, Nghị đại, huyện Hinh… Tác phẩm quả thực có giá trị hiện thực và tính nhân đạo sâu bền.

Em hay nhận xét về nhân vật tên quan phụ mẫu trong ván bản Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn
Ảnh minh họa (Nguồn internet)