Giá công suất thủy điện nhỏ tính như thế nào năm 2024

Mới đây, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã gửi Bộ Công Thương kiến nghị sửa đổi Biểu giá chi phí tránh được (ACT) cho các nhà máy thủy điện nhỏ.

Giá công suất thủy điện nhỏ tính như thế nào năm 2024

Gần 500 nhà máy thủy điện nhỏ (công suất phát điện dưới 30 MW) đứng trước khả năng có thay đổi lớn trong hoạt động kinh doanh với kiến nghị sửa đổi Biểu giá chi phí tránh được (ACT) cho các nhà máy thủy điện nhỏ mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) gửi Bộ Công Thương theo công văn số 5718/EVN-TTĐ ngày 20/9/2021.

Theo đó, EVN kiến nghị Bộ Công thương xem xét sửa đổi Thông tư 32/2014/TT-BCT như sau:

Đối với các nhà máy thủy điện nhỏ đã ký Hợp đồng mua bán điện (PPA) theo Thông tư 32, áp dụng cố định Biểu giá chi phí tránh được năm 2021 cho đến hết thời hạn PPA, trừ trường hợp lựa chọn tham gia trực tiếp thị trường điện; mở rộng đối tượng được lựa chọn hình thức tham gia trực tiếp thị trường điện; EVN được áp dụng linh hoạt các giải pháp thực hiện PPA đã ký với chủ đầu tư như thỏa thuận thay đổi giờ phát điện cao điểm, thay đổi khung thời gian Mùa khô, Mùa mưa theo ba miền Bắc- Trung- Nam trên nguyên tắc tránh quá tải, đảm bảo an ninh hệ thống điện, đảm bảo tối ưu và không ảnh hưởng đến lợi ích của chủ đầu tư trong các PPA đã ký, phản ánh đặc điểm thực tế thủy văn từng miền, phù hợp với điều kiện vận hành hệ thống điện và lộ trình phát triển thị trường điện.

Đối với các nhà máy thủy điện nhỏ chưa ký PPA, EVN đề nghị Bộ Công thương xây dựng cơ chế, chính sách mới thay thế Biểu giá chi phí tránh được quy định tại Thông tư 32 phù hợp với điều kiện vận hành hệ thống điện và thị trường phát điện hiện nay và xu hướng thay đổi trong tương lai, trong đó điều chỉnh giảm quy mô công suất định mức của nhà máy điện được hưởng cơ chế, chính sách mới thay thế Biểu giá chi phí tránh được.

Cơ chế chi phí tránh được áp dụng cho thủy điện nhỏ (ACT) được Bộ Công Thương ban hành tại Quyết định 18/2008/QĐ- BCT ngày 18/7/2008 và sau này thay thế bằng Thông tư 32/2014/TT-BCT ngày 09/10/2014 quy định về trình tự xây dựng, áp dụng Biểu giá chi phí tránh được và ban hành Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các nhà máy thủy điện nhỏ. Đây là chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích đầu tư các dự án thủy điện nhỏ trên nguyên tắc đảm bảo sự công bằng, minh bạch giữa bên mua và bên bán, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đảm bảo an sinh xã hội.

Các nhà máy thủy điện nhỏ cho rằng, các đề xuất trên của EVN sẽ có tác động lớn đến các nhà máy thủy điện nhỏ. Bởi thay vì giá bán điện được Đơn vị vận hành hệ thống điện tính toán trình Cục Điều tiết Điện lực thẩm định và trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành hàng năm theo biến động thị trường điện, theo đề xuất của EVN, giá mua điện của các nhà máy thủy điện nhỏ áp dụng với biểu giá chi phí tránh được năm 2021, hiện thấp hơn đáng kể so với mặt bằng giá các loại hình điện năng khác như: nhiệt điện, điện mặt trời, điện gió,…

Cũng trong văn bản gửi Bộ Công Thương, EVN đề xuất Bộ Công Thương sửa đổi Thông tư 32/2014/TT-BCT theo hướng quy định:

Hàng năm, EVN sẽ tính toán báo cáo Bộ Công Thương xem xét, phê duyệt giờ được hưởng giá công suất tránh được cho các nhà máy ACT, theo từng miền, theo từng mùa… Điều này có thể dẫn đến việc thay vì quy định thống nhất và áp dụng công bằng, công khai minh bạch giữa các nhà máy điện như hiện nay, EVN có quyền được áp dụng với mỗi nhà máy mỗi khác, mỗi vùng miền một cơ chế, một quy định khác nhau.

Nhận xét về đề xuất này, một chuyên gia có kinh nghiệm trong ngành điện cho rằng, nếu sửa đổi quy định như vậy và EVN được trao quyền rất lớn như trên, câu hỏi đặt ra là, cơ chế nào sẽ đảm bảo việc thực thi của EVN là công bằng, minh bạch, tránh cơ chế xin cho. Các nhà máy thủy điện sẽ khó có thể chủ động kế hoạch kinh doanh vì mỗi năm, mỗi thời điểm lại phải thực thi và tuân thủ các quy định khác nhau.

Đặc biệt, việc sửa quyết định có liên quan đến hàng trăm doanh nghiệp cần hết sức thận trọng và việc này là nhằm để áp dụng dài hạn chứ không phải do hệ thống hiện nay bị áp lực tăng chi phí, phải tăng giá điện và biến đổi khí hậu theo năm mà vài tháng hay mỗi năm lại thay đổi giờ cao điểm cho thủy điện nhỏ áp dụng ACT, khiến chính sách trở thành bất định, mang tính sự vụ.

Các chuyên gia cũng cho rằng, cần tránh tình trạng cho EVN quyền được điều hành (do A0 vẫn đang thuộc EVN) lẫn đàm phán hợp đồng vì như thế các doanh nghiệp làm thủy điện nhỏ chân chính sẽ bị khó và bị ép trong quá trình đàm phán.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, TS Đào Trọng Tứ - trưởng ban điều phối Mạng lưới sông ngòi VN - cho hay trên sông Chu (Thanh Hóa) chỉ 15km dòng sông có tới 3 đập dự án thủy điện Cửa Đạt, Xuân Minh, Bái Thượng; hay trên sông Bồ (Thừa Thiên Huế) trong khoảng 15km cũng có tới 3 nhà máy thủy điện nhỏ Rào Trăng 4, Rào Trăng 3 và Alin B2. Về mặt kinh tế, nhà đầu tư thủy điện rất có lợi nhưng các dòng sông đang bị băm nát, luôn có nguy cơ gây lũ dữ mỗi khi mưa lớn.

Sông, suối "khổ" vì thủy điện nhỏ

* Từng cộng tác, tham vấn để Quốc hội ban hành nghị quyết 62/2013 về thủy điện, theo ông, có nên phát triển ồ ạt thủy điện nhỏ, thủy điện bậc thang?

- Năm 2013, nghị quyết 62 đã yêu cầu đưa ra khỏi quy hoạch 424 dự án thủy điện, tạm dừng có thời hạn 136 dự án, không xem xét đưa vào quy hoạch 172 vị trí tiềm năng, tiếp tục rà soát, đánh giá 158 dự án thủy điện nhỏ. Nhưng đến nay, các thủy điện nhỏ được xây dựng vẫn có nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, miền Nam.

Rất nhiều sông, suối đang "khổ" vì thủy điện nhỏ và vừa, ví như dòng sông Mã đoạn chạy qua Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa và nhiều hệ thống sông ở miền Trung. Việc phát triển hệ thống thủy điện nhỏ phải hết sức thận trọng, không vì lợi ích nhỏ mà tàn phá môi trường trên diện tích lớn. Khi xây dựng các thủy điện nhỏ ở vùng sâu vùng xa buộc các chủ đầu tư phải cắt chân các dãy núi để làm đường tới công trình, nên nguy cơ sạt lở núi rất lớn.

* Cả nước có 290 nhà máy thủy điện nhỏ, công suất khoảng 2.995MW đã vận hành, khai thác và đang xây thêm khoảng 138 nhà máy, công suất khoảng 1.793MW. Chúng ta có nên xem lại quy hoạch thủy điện nhỏ?

- Các thủy điện nhỏ hiện nay có công suất phát điện khoảng 10MW/nhà máy. Tuy nhiên, xây quá nhiều thủy điện nhỏ thì nguy cơ gây tai họa rất lớn, hầu hết các nhà đầu tư tư nhân khi đề xuất làm dự án đều nói đó là nguồn năng lượng sạch, mang lại lợi ích kinh tế nên địa phương dễ dàng duyệt. Nhưng đến từng nhà máy thủy điện nhỏ sẽ thấy nhiều bất cập. Các thủy điện nhỏ xây dựng ở vùng sâu vùng xa nên nhà đầu tư thường tính toán để giảm tối đa chi phí đầu tư, không loại trừ nảy sinh nhiều vấn đề về chất lượng xây dựng hồ đập.

Tôi vừa đi khảo sát tại vùng thượng nguồn sông Mã, dự án thủy điện Hồi Xuân (huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa), công suất khoảng 100MW. Vị trí xây dựng công trình nằm bên dưới và tận dụng nguồn nước từ 2 nhà máy thủy điện Trung Sơn, Thanh Trung xả xuống.

Theo tính toán, nếu dự án này phát điện sẽ đem lại nguồn thu khoảng 1 tỉ đồng/ngày, nhưng 2 năm nay nhà đầu tư đang bỏ dở dự án. Giữa thượng nguồn sông Mã chình ình một khối bêtông khổng lồ cản dòng chảy, tác động tiêu cực tới dòng sông nhưng không thấy ai chịu trách nhiệm.

Nguyên nhân của việc cấp phép ồ ạt dự án thủy điện nhỏ một phần do quy trình bổ sung dự án mới vào quy hoạch khá dễ dàng. Chỉ cần nhà đầu tư thấy có tiềm năng làm dự án là họ bằng mọi cách vận động địa phương bổ sung dự án vào quy hoạch. Dường như các thủy điện nhỏ và vừa đang được làm bằng mọi giá, nhà đầu tư chỉ cố đặt cho được tuôcbin phát điện trên sông suối để thu tiền.

Vì vậy các bộ, ngành, địa phương cần ban hành các tiêu chuẩn cụ thể về đầu tư nhà máy thủy điện nhỏ và quy định chỉ được xây dựng thủy điện nhỏ tại khu vực nào, không thể chỗ nào có tiềm năng là đặt nhà máy. Ví dụ dòng sông Nho Quế, tỉnh Hà Giang rất đẹp nhưng đang bị cắt khúc bởi hàng loạt thủy điện nhỏ và vừa.

Chỉ nên phát triển thủy điện nhỏ ở những sông suối nhỏ, không phải làm đập cao, ít tác động đến môi trường.

Giá công suất thủy điện nhỏ tính như thế nào năm 2024

Phát triển thủy điện nhỏ là bài toán đánh đổi, không thể loại bỏ hết rủi ro.

TS Đào Trọng Tứ

Loại bỏ dự án không an toàn

* Vì sao các dự án thủy điện nhỏ lại hấp dẫn đến vậy, thưa ông?

- Đáng lẽ các nhà đầu tư dự án thủy điện phải trả đủ chi phí cho các vấn đề tổn hại môi trường, đất đai làm dự án, thiệt hại rừng, bảo đảm môi trường vùng hạ lưu. Nhưng hầu hết các chi phí này đang được tính toán qua loa. Nhiều nhà đầu tư đang tận dụng kẽ hở này để có được siêu lợi nhuận khi vốn đầu tư thủy điện nhỏ không quá lớn nhưng nguồn thu lớn. Với thủy điện, cứ chặn dòng, đặt tuôcbin xuống là thu được tiền, không phải bỏ nhiều chi phí vận hành.

Các địa phương khi phê duyệt dự án thủy điện đều đặt nặng mục đích kinh tế như cấp điện sinh hoạt cho dân, đóng thuế cho địa phương. Tuy nhiên, có sự bất bình đẳng là người hưởng lợi ích kinh tế từ các dự án thủy điện nhỏ nhiều nhất là nhà đầu tư tư nhân nhưng thiệt hại nhiều nhất từ thiên tai, từ xả lũ của thủy điện nhỏ là dân vùng hạ du.

* Sự cố mưa lũ lớn tại miền Trung những ngày qua cho thấy các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa không thực hiện được chức năng thoát lũ, cắt lũ. Khả năng gây tình trạng lũ chồng lũ, theo ông, do đâu?

- Dự án thủy điện nhỏ thường đưa mực nước chết của đập lên rất cao, tức tích nước phát điện. Trong khi lũ về, chúng thường xả thẳng xuống hạ du.

Vì thế các địa phương cần có sự kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện thoát lũ, điều tiết nước tại các dự án thủy điện nhỏ và vừa đã xây dựng. Các cơ quan quản lý nhà nước cần kiểm soát, yêu cầu các hồ chứa xả lũ đúng quy trình. Các cơ quan chức năng trung ương và địa phương cần giám sát tốt việc vận hành hồ chứa thủy điện. Bên cạnh đó, cần tính toán lại quy trình xả lũ của các dự án thủy điện hiện nay, nếu không phù hợp cần thay đổi để tránh cho vùng hạ du những tai họa.

Khi có lũ lớn, các chủ đầu tư phải xả lũ để bảo vệ công trình, nhưng hoạt động xả lũ có bảo đảm an toàn cho người dân hạ du không là vấn đề cơ quan nhà nước phải can thiệp.

Về lâu dài nên cân nhắc cấp phép bao nhiêu thủy điện trên một dòng sông là đủ, đừng chỉ thấy đặt được tuôcbin phát điện là làm nhà máy.

Giá công suất thủy điện nhỏ tính như thế nào năm 2024

Nước tràn vào khu đập bị vỡ của thủy điện Ia Krel 2 (tháng 8-2014) - Ảnh: T.L.

* Từ một số sự cố thủy điện thời gian qua, cần rà soát lại vấn đề an toàn không, thưa ông?

- Các thủy điện lớn thì cơ bản đã được tính toán để bảo đảm an toàn trong vận hành, nhưng với hàng trăm thủy điện nhỏ và vừa hiện nay trên các dòng sông cần được rà soát, đánh giá lại khả năng vận hành an toàn. Kiểm tra, rà soát và xử lý nghiêm túc sẽ tránh được sự cố đáng tiếc, giảm thiệt hại. Với các dự án không an toàn buộc phải khắc phục hoặc ngừng phát điện.

Bên cạnh đó, các nhà máy thủy điện phải xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, thông báo trước cho người dân khi nào hồ chứa xả lũ, xả bao nhiêu, nguy cơ thế nào. Muốn vậy phải xây dựng bản đồ ngập lụt vùng hạ du các hồ chứa để tránh được các thiệt hại khi xả lũ.

* Ông Nguyễn Đăng Hà (vụ trưởng Vụ An toàn đập, Tổng cục Thủy lợi):

Cần 3.000 tỉ đồng để cải tạo 200 hồ thủy lợi

Cả nước hiện có 1.645 hồ chứa bị xuống cấp, thiếu khả năng xả lũ, trong đó có 200 hồ chứa bị hư hỏng nặng, cần phải sửa chữa ngay trong năm 2020. Bộ đang báo cáo Chính phủ hỗ trợ các địa phương kinh phí để sửa chữa 200 hồ xuống cấp nghiêm trọng. Theo tính toán, cần khoảng 3.000 tỉ đồng để sửa chữa nâng cấp, trong đó trung ương hỗ trợ khoảng 1.500 tỉ đồng, phần kinh phí còn lại do các địa phương tự thu xếp. Trước đó, trong năm 2018 - 2019, Chính phủ đã hỗ trợ khoảng 500 tỉ đồng, các địa phương bố trí thêm khoảng 400 tỉ đồng để sửa chữa 84 hồ chứa bị hư hỏng, xuống cấp nặng.

* Ông Trần Viết Ngãi (chủ tịch Hiệp hội Năng lượng VN):

Giám sát chặt chất lượng xây dựng đập thủy điện

Sau sự cố Rào Trăng 3, cần xem lại chất lượng xây dựng, kết cấu các đập thủy điện nhỏ, chất lượng kè hai bên đập của các nhà máy thủy điện nhỏ. Nhiều nhà máy thủy điện nhỏ do tư nhân làm có chất lượng bêtông kém, không bảo đảm an toàn công trình, có nguy cơ vỡ đập khi lũ lớn. Cần quy trách nhiệm cho những người cấp phép, người có trách nhiệm giám sát chất lượng, nghiệm thu kỹ thuật công trình thủy điện nhỏ để xảy ra sự cố tại các địa phương.