Giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân bỏng

Nguyễn Thị Diễm - Khoa Ngoại CT

Bỏng là tình trạng tổn thương da, tổ chức dưới da, cơ, xương do nhiệt, điện, hóa chất, ma sát hay bức xạ. Bài viết này không đi sâu phân loại hay mô tả tổn thương bỏng, không phân tích sâu nguyên nhân gây bỏng, cũng như không viết chi tiết các kỹ thuật chăm sóc điều dưỡng trên bệnh nhân bỏng. Nội dung bài viết nhằm giúp cho người điều dưỡng có được những kỹ năng lập kế hoạch chăm sóc tốt cho bệnh nhân bỏng. Bỏng có nhiều mức độ tổn thương nặng nhẹ khác nhau, tùy vào tác nhân gây bỏng, vị trí bỏng, diện tích bỏng, tổ chức bị tổn thương mà xử trí, điều trị và chăm sóc sao cho phù hợp, hiệu quả, không để lại di chứng, biến chứng, thậm chí tử vong.

Giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân bỏng

I. Các xử trí sơ cứu ban đầu khi bị bỏng bao gồm

-  Đưa nạn nhân ra khỏi vùng tác nhân gây bỏng.

-  Chú ý trang phục trên người vùng bị bỏng. Cần cởi bỏ trang phục sao cho không làm tổn thương thêm vùng da nơi bị bỏng.

-  Tùy vào tác nhân gây bỏng mà có cách xử trí ban đầu sao cho phù hợp:

  • Đối với bỏng diện tích bé, nhất là ở hai bàn tay hay hai bàn chân thì ngâm ngay phần chi bỏng vào nước sạch có đá lạnh, mỗi lần ngâm 20 phút. Rút ra mấy phút rồi ngâm tiếp, trong khoảng thời gian 2 giờ.
  • Khi bị bỏng do acid hoặc bazơ cần phải rửa nhiều nước lạnh dội lên vết bỏng liên tục trong khoảng 10 phút nhằm pha loãng nồng độ và loại bớt tác nhân gây bỏng. sau đó dùng các chất trung hoà. Trung hoà acid bằng dung dịch natribicacbonat (NaHCO3) 1- 2%, nước xà phòng. Trung hoà bazơ bằng acid acetic (CH3COOH) 6%, amôni clorua (NH4CL) dung dịch 5%, acid boric B(OH)3 dung dịch 3%, hoặc nước giấm, nước chanh, nước đường.
  • Không rửa nước khi bị bỏng do acid sunfuric (H2SO4), acid clohydric (HCL), và các hợp chất hữu cơ - nhôm. Vì sẽ phát sinh thêm nhiệt do các phản ứng hoá học.
  • Nếu bỏng do nhựa đường, dùng dầu tây (dầu hỏa) loại trừ nhựa đường.

-  Đặt lên vết bỏng băng, gạc hoặc vải sạch không có lông để tránh nhiễm trùng.

-  Nếu bỏng nhẹ cần giữ da vùng bị bỏng khô, sạch, hạn chế tổn thương.

-  Nếu bỏng nặng cần chú ý bù nước, điện giải và đưa ngay đến bệnh viện.

-  Không dùng băng bông có lông tơ mịn để băng vết bỏng.

II. Chăm sóc bệnh nhân bỏng nặng

Giai đoạn Shock: diễn biến qua hai thời kỳ và kéo dài khoảng 48 giờ đầu.

Thời kỳ Shock thần kinh: xuất hiện ngay sau khi bị bỏng và kéo dài trong vòng 6 giờ đầu. Nguyên nhân: do tác nhân gây bỏng kích thích vào các nơron thần kinh gây đau đớn. Lâm sàng: người bệnh hoảng hốt, kêu la, vật vã, mặt đỏ, mạch nhanh, huyết áp tăng nhẹ. Chăm sóc giai đoạn này cần chú ý giảm đau cho người bệnh, nếu cần thiết có thể dùng thuốc an thần gây ngủ. Người bệnh vật vả, kích thích nên nguy cơ dễ làm tổn thương thêm tổ chức nơi bị bỏng. Cần đặt người bệnh nằm ở tư thế an toàn cho vết bỏng. Thiết lập đường truyền tĩnh mạch tốt, chú ý bù nước, điện giải theo bilan dịch.

Thời kỳ Shock bỏng: kéo dài từ 6 - 48 giờ. Người bệnh nằm lả đi, luôn kêu khát, da và niêm mạc nhợt tím, chân, tay và trán lạnh, vã mồ hôi. Huyết áp tụt, mạch nhanh, thân nhiệt giảm, buồn nôn, uống vào là nôn. Nước tiểu ngày một ít đi, đỏ đặc, có nhiều huyết cầu tố, protein, dần dần có thể bị vô niệu. Giai đoạn này đặc biệt quan tâm đến huyết động, bilan dịch và thân nhiệt người bệnh. Đặt sonde tiểu lưu, theo dõi nước tiểu và các xét nghiệm công thức máu, điện giải đồ, ure máu.

Giai đoạn nhiễm độc cấp tính: kéo dài từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 15. Nguyên nhân: do hấp phụ chất độc của tổ chức do hoại tử và nhiễm khuẩn. Triệu chứng lâm sàng: người bệnh trong tình trạng kích thích, vật vã, nằm lơ mơ, tri giác sút kém, dần dần có thể bị hôn mê. Sốt cao dai dẳng từ 40 - 41oC. Đầu, mũi và chân tay lạnh, môi tím, nổi vân tím, đôi khi ửng đỏ quanh các vết bỏng. Người bệnh thở nông, không đều, đi tiểu ít dần, có khi vô niệu, mạch nhanh, nhỏ, khó bắt, chán ăn, thường nôn, bỏng nặng hay gặp chảy máu tiêu hoá do loét cấp tính. Chăm sóc giai đoạn này tương tự như Shock bỏng. Thêm vào đó là phải theo dõi tri giác, theo dõi tình trạng xuất huyết và cho người bệnh thở Oxy. Không quên chăm sóc chế độ dinh dưỡng cho người bệnh. Phải đảm bảo đủ dinh dưỡng và đủ năng lượng đối với người bị bệnh bỏng (thường dùng trên 3000 Kcalo/ngày tùy vào mức độ bỏng).

Giai đoạn nhiễm trùng: sốt dao động, gầy mòn, kém ăn, mất ngủ. Vết bỏng có tổ chức hạt phù nề, nhiễm khuẩn. Chăm sóc giai đoạn này chủ yếu là kháng sinh, dinh dưỡng nâng cao thể trạng.

Giai đoạn hồi phục: nếu điều trị và chăm sóc kém, muộn, người bệnh suy mãn, thiếu nhiều protein thì sẽ lâm vào “vòng luẩn quẩn”. Gầy mòn, hốc hác, miếng vá da không “ăn” loét nhiều chỗ, bàn chân bị nề do suy dinh dưỡng. Do vậy, ngay từ đầu phải đặt ra vấn đề chống nhiễm trùng triệt để. Áp dụng chế độ dinh dưỡng bệnh lý cho bệnh nhân bỏng ngay từ đầu.

III. Chăm sóc vết thương do bị bỏng

Với nốt phỏng nhỏ để nguyên, nốt phỏng to chọc ở bờ nốt phỏng cho thoát dịch. Rửa vết bỏng: dùng nước vô khuẩn: nước cất, NaCl 0,9%. Đối với bỏng do acid: dùng dung dịch natri bicacbonat 2-3%, Đối với bỏng do kiềm: Sau khi rửa, đắp ngay các dung dịch toan như acid acetic 0,5 – 6%, amôni clorua 5%, acid boric 3%. Nếu không có dung dịch trên, dùng nước dấm, nước chanh, nước đường 20%. Băng diện bỏng với vài lớp gạc tẩm nhiều thứ thuốc: dầu cá, dầu gấc, thuốc mỡ, oxyt kẽm, cao lá sim, nghệ. Bỏng ở mặt, vùng hậu môn sinh dục thì rắc bột sous gallate de bismuth, để hở, không băng. Cần ngăn ngừa di chứng sẹo co dính vùng khớp đối với bỏng sâu: băng riêng từng ngón tay, khớp bỏng phải giữ ở tư thế dự phòng quá mức, hạn chế sẹo co dúm. Đối với những vết bỏng có mủ thì phải được cấy mủ, làm kháng sinh đồ. Vấn đề thẩm mỹ vết bỏng, hiện nay trên thị trường có sản phẩm gel silicol dán lên vết bỏng ngay sau điều trị sẽ giúp vết bỏng liền sẹo thẩm mỹ hơn. Đây là sản phẩm ngoại nhập nên giá thành khá đắt (khoảng 500 đến 600 nghìn cho một miếng dán diện tích 20 cm2). Ngoài ra có thể đắp nghệ tươi ngay sau khi vết bỏng lên da non, hạn chế vết bỏng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Đặc biệt trong suốt quá trình chăm sóc vết thương do bị bỏng phải tuyệt đối vô trùng. Hạn chế vết bỏng bị tỳ đè hay các vết bỏng tiếp xúc với nhau (nhất là ở ngón tay, ngón chân).

Tin mới hơn:

Tin cũ hơn:

<< Trang truớcTrang kế >>

  • Bỏng là một cấp cứu ngoại khoa.
  • Tác nhân gây bỏng làm thương tổn da.
  • Bỏng gặp cả ở thời bình lẫn thời chiến.
  • Bỏng nếu không được sơ cứu tốt, không được cấp cứu kịp thời người bệnh có thể bị tử vong do sốc.
  • Bỏng nếu không được chăm sóc đúng sẽ để lại những di chứng.
  • Do nhiệt độ cao: thường gặp nhất (84% đến 93%).

Nhiệt độ khô: lửa, kim loại nóng chảy, những nguyên nhân này thường gây bỏng sâu.

Nhiệt độ ướt: nước sôi, hơi nước sôi, dầu mỡ sôi.

  • Do hoá chất: chiếm 2,3% đến 8%.

Nhóm axit: axit sunfuric, axit clohydric, axit nitric,..

Nhóm kiềm: canxihydrôxit, natrihydrôxit,…

Bỏng do hoá chất làm tổn thương da sâu, loại trừ tác nhân gây bỏng khó, khi khỏi thường để lại di chứng nặng, phức tạp.

Do dòng điện: bỏng nơi tiếp xúc với dòng điện đi qua, đây là loại bỏng với diện tích nhỏ nhưng sâu.

Do tia lửa điện.

Tia hồng ngoại.

Tia tử ngoại.

Hạt cơ bản .

Các nguyên nhân này có trong ánh nắng mặt trời, hàn điện.

  • Các nguyên nhân khác: bỏng do phospho, nhựa đường nóng chảy, nổ thuốc pháo.

PHÂN LOẠI BỎNG

Dựa vào diện tích

  • Cách tính đơn giản là theo quy luật số 9:
+ Đầu mặt cổ: 9%
+ Một chi trên: 9%
+ Một chi dưới: 18%
+ Thân trước: 18%
+ Thân sau: 18%
+ Bộ phận sinh dục: 1%
  • Phương pháp tính bằng cách ướm đo diện tích bỏng bằng lòng bàn tay (người bệnh). Mỗi lòng bàn tay người bệnh tương ứng với 1% đến 1,25% diện tích cơ thể của người đó.

Dựa vào độ sâu: bỏng được chia làm hai loại: bỏng nông và bỏng sâu.

Bỏng độ I: là bỏng ở lớp sừng, hay gặp khi cháy nắng. Da ửng đỏ, hơi rát, sau 2 – 3 ngày sẽ tự khỏi: lớp sừng bị bong, không để lại vết tích hoặc da có thể bị đổi màu ít. Khi bị bỏng độ I quá rộng thì có thể có phản ứng toàn thân, biểu hiện sốc, sốt, cá biệt có ca tử vong.

Bỏng độ II : lớp biểu bì bị thương tổn, xuất hiện các nốt phỏng sau 1-2 giờ. Các nốt phỏng chứa dịch huyết tương, nằm giữa các tế bào gai Malpighi biểu bì. Dịch nốt phỏng ban đầu trong, sau đục dần. Dưới chỗ phỏng là một lớp tế bào đáy và rất rát. Khi lành da không để lại sẹo dúm dó.

Bỏng độ III: lớp tế bào đáy bị tác nhân gây bỏng phá huỷ hoàn toàn, bỏng ăn lan đến lớp trung bì, gây hoại tử da.

+ Ở bỏng sâu độ III, các nốt phỏng thường bị vỡ, để lại một nền ướt màu trắng bệch hoặc vàng nhạt, sờ hay chạm tay vào không đau hoặc đau rất ít.

+ Bỏng độ III nếu để diễn biến tự nhiên sẽ phát triển tổ chức hạt và sẽ tạo thành sẹo.

Bỏng độ IV: nhiệt phá huỷ hết lớp da ăn sâu đến lớp hạ bì, lớp cơ, xương, có chỗ cháy đen.

Bỏng trung gian hay thấy do nước sôi đổ vào người ở phần có quần áo, tất… Bỏng làm hỏng hết lớp thượng bì, làm hỏng các lớp tế bào đáy nằm nông (các tế bào đáy nằm uốn lượn lên xuống).

Chẩn đoán bỏng = Diện tích bỏng nói chung (diện độ sâu) – tác nhân gây bỏng / (Độ bỏng – Vị trí bỏng)

Thí dụ:

40(15%) – nước sôi /(I, II, III, IV – mặt ngực, hai chi trên)

DIỄN BIẾN CỦA MỘT BỎNG NẶNG

Bỏng được coi là nặng khi :

+ Bỏng từ độ II trở lên.

+ Diện tích bỏng : ở trẻ em > 10% ; ở người lớn > 30%.

Diễn biến của một bỏng nặng tiến triển qua bốn giai đoạn:

  • Giai đoạn sốc: diễn biến qua hai thời kỳ và kéo dài khoảng 48 giờ đầu.

Thời kỳ sốc thần kinh : xuất hiện ngay sau khi bị bỏng và kéo dài trong vòng 6 giờ đầu.

+ Nguyên nhân: do tác nhân gây bỏng kích thích vào mặt đoạn thần kinh gây đau đớn.

+ Lâm sàng: người bệnh hoảng hốt, kêu la, vật vã, mặt đỏ, mạch nhanh, huyết áp tăng nhẹ.

Thời kỳ sốc bỏng: kéo dài từ 6 – 48 giờ.

+ Người bệnh nằm lả đi, luôn kêu khát, da và niêm mạc nhợt tím, chân tay lạnh, vã mồ hôi lạnh ở trán. Huyết áp tụt, mạch nhanh, thân nhiệt giảm, buồn nôn, uống vào là nôn. Nước tiểu ngày một ít đi, đỏ đặc, có nhiều huyết cầu tố, protein, dần dần có thể bị vô niệu.

  • Giai đoạn nhiễm độc cấp tính: kéo dài từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 15.

Nguyên nhân: do hấp phụ chất độc của tổ chức do hoại tử và nhiễm khuẩn.

Triệu chứng lâm sàng: người bệnh trong tình trạng kích thích, vật vã, nằm lơ mơ, tri giác hiểu biết sút kém. Dần dần có thể bị hôn mê. Sốt cao dai dẳng đến 40 – 41oC. Đầu, mũi và chân tay lạnh, môi tím, nổi vân tím, đôi khi ửng đỏ quanh các vết bỏng Người bệnh thở nông, không đều, đi tiểu ít dần, có khi vô niệu, mạch nhanh yếu, chán ăn, thường nôn, bỏng nặng hay gặp chảy máu tiêu hoá do loét cấp tính.

  • Giai đoạn nhiễm trùng: sốt dao động, gầy mòn, kém ăn, mất ngủ. Vết bỏng có tổ chức hạt phù nề, nhiễm khuẩn.
  • Giai đoạn hồi phục hay suy mạn kéo dài: nếu điều trị kém, muộn, người bệnh suy mãn, thiếu nhiều protein thì sẽ lâm vào “vòng luẩn quẩn”. Gầy mòn, hốc hác, miếng vá da không “ăn” loét nhiều chỗ, bàn chân bị nề do suy dinh dưỡng.

SƠ CỨU BỎNG

  • Loại trừ tác nhân gây bỏng: dập lửa, cắt nguồn điện.
  • Đưa người bệnh ra khỏi vùng bỏng.
  • Cho người bệnh nằm ở chỗ thoáng mát về mùa hè, ấm vào mùa đông.
  • Cắt bỏ quần áo vùng bỏng, chú ý chống lạnh, nhiệt độ xung quanh tốt nhất 22-24o Trời rét phải ủ ấm nhưng ở bỏng không nen sưởi.
  • Đối với bỏng diện tích bé, nhất là ở hai bàn tay thì ngâm ngay phần chi bỏng trong nước có đá lạnh, mỗi lần ngâm 20 phút. Rút ra mấy phút rồi ngâm tiếp, trong khoảng thời gian 2 giờ. Người bệnh sẽ đỡ đau, đỡ phỏng nước.
  • Khi bị bỏng do axit hoặc bazơ (chất kiềm) cần phải rửa nhiều nước lạnh dội lên, hoặc ngâm vùng bỏng vào nước lạnh để hoà loãng nồng độ sau đó dùng các chất trung hoà.

+ Trung hoà axit bằng dung dịch natribicacbonat 1- 2%, nước xà phòng, nước vôi nhì 5%…

+ Trung hoà kiềm dùng: axit axetic 6%, amôni clorua (NH4CL) dung dịch 5%, axit boric dung dịch 3%, hoặc nước giấm, nước chanh, nước đường.

  • Không rửa nước khi bị bỏng do axit sunfuric, axit clohydric, axit muriatic và các hợp chất hữu cơ – nhôm, vì sẽ phát sinh thêm nhiệt do các phản ứng hoá học.
  • Nếu bỏng do nhựa đường, dùng dầu tây loại trừ nhựa đường.
  • Băng ép vết bỏng để tránh thoát huyết tương.
  • Dùng thuốc giảm đau an thần.
  • Cho uống nước chè đường ấm.
  • Dùng gạc sạch phủ lên vùng bỏng.
  • Chuyển người bệnh lên tuyến điều trị thực thụ. Khi vận chuyển không để cao đầu.

KẾ HOẠCH CHĂM SÓC

Nhận định

Tình trạng toàn thân

  • Nhận định xem người bệnh có bị sốc không?

+ về tinh thần: xem có tỉnh hay không?

+ Quan sát da, niêm mạc: xem da có xanh tái không, niêm mạc có nhợt nhạt không?

+ Nhận định về dấu hiệu sinh tồn.

+ Nhận định về lượng nước tiểu trong 8 giờ, 16 giờ, 24 giờ.

  • Nhận định xem có nhiễm trùng, nhiễm độc không?

+ về tinh thần: xem người bệnh có mệt mỏi không?

+ Nhận định xem có sốt cao không?

+ Nhận định vẻ mặt: môi có khô, lưỡi có bẩn hay không?

+ Nhận định về nước tiểu?

Nhận định nơi da bị bỏng

  • Nhận định về thời gian và địa điểm xảy ra bỏng?
  • Nhận định tác nhân gây bỏng ?
  • Nhận định xem sau bỏng người bệnh đã được sơ cứu như thế nào và đã dùng thuốc gì ?
  • Nhận định về vị trí bỏng, diện tích bỏng, độ sâu bỏng ?

Những vấn đề cần chăm sóc

  • Người bệnh lo lắng, hoảng hốt do bị bỏng.
  • Sốc hoặc nguy cơ sốc do đau, do mất huyết tương.
  • Nguy cơ nhiễm độc do vết bỏng.
  • Nhiễm trùng vết bỏng.
  • Nguy cơ biến loạn dấu hiệu sinh tồn do bỏng nặng.
  • Nguy cơ suy mòn.
  • Thiếu hiểu biết kiến thức trong phòng tránh bỏng.

Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch chăm sóc

Phòng chống sốc

    • Cho người bệnh nằm nghỉ tại giường.
    • Tiêm thuốc giảm đau, an thần theo y lệnh. Các thuốc thường dùng là:

+ Morphinclohydrat.

+ Phenobacbitan.

+ Seduxen.

+ Aminazin (dùng cho trẻ em).

  • Truyền dịch theo y lệnh: phải đảm bảo đường truyền tốt để bồi phục đủ nước và điện giải.
  • Loại trừ nguyên nhân bỏng: phải làm nhẹ nhàng, tránh gây đau đớn, tránh gây trợt da.
  • Cho người bệnh thở oxy khi cần thiết.
  • Đặt ống thông niệu đạo – bàng quang theo dõi số lượng nước tiểu.

Thực hiện y lệnh của thầy thuốc và lấy máu làm xét nghiệm: thông thường các xét nghiệm làm trong bỏng là: CTM, điện giải đồ, urê huyết, nhóm máu, hematocrit.

Chăm sóc vết bỏng

  • Với nốt phỏng nhỏ để nguyên, nốt phỏng to chọc ở bờ cho thoát dịch.
  • Rửa vết bỏng:

+ Dùng nước vô khuẩn: nước cất, NaCl 0,9%.

+ Đối với bỏng do axit: dùng dung dịch natri bicacbonat 2-3%, nước vôi nhì 5%…

+ Đối với bỏng do kiềm: Sau khi rửa, đắp ngay các dung dịch toan như axit axêtic 0,5 – 6%, amôni clorua 5%, axit boric 3%. Nếu không có dung dịch trên, dùng nước dấm, nước chanh, nước đường 20%.

  • Băng diện bỏng với vài lớp gạc tẩm nhiều thứ thuốc: dầu cá, thuốc mỡ, dầu gấc, thuốc mỡ, oxyt kẽm, cao lá sim, nước sắc vỏ cây xoan trà (B76), nghệ, lá sắn thuyền…
  • Ở trẻ em và ở các chi có thể quấn thêm vài lượt thạch cao mỏng cho khỏi tuột da.
  • Bỏng ở mặt, vùng hậu môn sinh dục thì rắc bột sous gallate de bismuth, để hở, không băng.
  • Cần ngăn ngừa di chứng sẹo co dính vùng khớp đối với bỏng sâu: băng riêng từng ngón tay, khớp bỏng phải giữ ở tư thế dự phòng quá mức, hạn chế sẹo co dúm.
  • Đối với những vết bỏng có mủ thì phải được cấy mủ, làm kháng sinh đồ.

Chăm sóc tổng quát

+ Phòng bệnh cần phải giữ sạch sẽ, thoáng mát vào mùa hè, ấm và tránh gió lùa vào mùa đông và phải được khử khuẩn thường xuyên.

+ Khăn trải giường và quần áo người bệnh cần phải được sát khuẩn.

+ Giữ cho da được sạch sẽ nhất là vùng bộ phận sinh dục.

+ Nếu có đặt ống thông niệu đạo bàng quang cần tránh nhiễm khuẩn ngược dòng.

+ Tránh loét: dùng đệm chống loét, lay trở, xoa bột tan vào các vùng tỳ đè.

+ Vệ sinh răng miệng hằng ngày.

  • Dinh dưỡng: nếu người bệnh không nôn cần cho ăn bằng đường miệng, đảm bảo 3000kalo/24giờ, thức ăn có nhiều vitamin + protid.

Giáo dục sức khỏe

  • Giải thích, động viên người bệnh yên tâm điều trị.
  • Phổ biến nội quy khoa phòng để người bệnh thực hiện.
  • Hướng dẫn cách giữ gìn vết bỏng không chạm tay vào vùng bỏng, không tự dùng thuốc cho vào vùng bỏng.
  • Giáo dục cộng đồng thận trọng trong lao động, sinh hoạt để tránh bỏng.
  • Biết cách sơ cứu bỏng đúng phương pháp để có thể hạn chế được diện tích và độ sâu của bỏng.

Đánh giá

Việc chăm sóc được coi là có kết quả khi:

  • Người bệnh được sơ cứu tốt sau bỏng.
  • Vết bỏng không nhiễm khuẩn.
  • Người bệnh ăn uống tốt.
  • Phục hồi chức năng tốt sau bỏng.