Kiểm tra đánh giá trong dạy học năm 2024

Kiểm tra là quá trình xem xét, tổ chức thu thập thông tin và gắn với đo lường để đưa các kết quả xác định xem cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được, những nguyên nhân ảnh hưởng, chi phối. Quá trình kiểm tra cho phép làm rõ những đặc trưng về số lượng và chất lượng của thực trạng giáo dục. Trong dạy học, kiểm tra là kỹ thuật thu thập thông tin về hoạt động học của học sinh; những thông tin này được so sánh với một chuẩn nhất định để đánh giá hoạt động học.

  • Kiểm tra và đánh giá là hai hoạt động đan xen nhằm miêu tả và tập hợp những bằng chứng về kết quả của quá trình giáo dục để đối chiếu với mục tiêu. Kiểm tra luôn gắn với đánh giá. Trong thực tế, có thể tiến hành thu thập các thông tin nhưng không đánh giá. Tuy nhiên, để đánh giá được cần tiến hành kiểm tra, tức là phải tiến hành thu thập các thông tin, những thông tin thu được sẽ là căn cứ cho đánh giá.
  • Khái niệm đánh giá:
  • Đánh giá là một khâu quan trọng, không thể tách rời của quá trình giáo dục. Nếu coi giáo dục là một hệ thống thì đánh giá đóng vai trò phản hồi của hệ thống. Đánh giá có vai trò tích cực giúp hiểu biết và đưa ra được các quyết định cần thiết về hệ thống, góp phần đổi mới giáo dục. Có nhiều quan niệm khác nhau về đánh giá, tuy nhiên, có thể định nghĩa đánh giá là quá trình tiến hành có hệ thống: thu thập, tổng hợp, và phân tích, xử lý, diễn giải thông tin về đối tượng cần đánh giá như kiến thức, kĩ năng, phẩm chất, năng lực của học sinh; kế hoạch bài dạy của giáo viên, chính sách giáo dục của nhà trường... Nó bao gồm sự mô tả định tính hay định lượng những kết quả đạt được và so sánh với mục tiêu giáo dục đã xác định. Đánh giá cho phép xác định (định giá) các mục tiêu giáo dục đặt ra là phù hợp hay không phù hợp? mức độ đạt được mục tiêu giáo dục cũng như tiến trình thực hiện mục tiêu như thế nào?
  • Đánh giá trong giáo dục được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau như: đánh giá hệ thống giáo dục, đánh giá một nhà trường, một cơ sở giáo dục và đào tạo, đánh giá hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh, đánh giá các thành tố của quá trình giáo dục, dạy học... Sự

đánh giá ở mỗi đối tượng cần phải được xem xét theo những tiêu chuẩn và tiêu chí riêng cho phù hợp.

3 trò của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục:

  1. Đánh giá – bộ phận không thể tách rời quá trình dạy học.

Kiểm tra, đánh giá là một khâu quyết định, không thể tách rời của quá trình dạy học, là động lực thúc đẩy sự đổi mới không ngừng của quá trình dạy và học. Thông qua kiểm tra, đánh giá, giáo viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện điểm được và chưa được ở kết quả học tập hiện thời của học sinh cũng như những nguyên nhân cơ bản dẫn

tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy, qua đó hướng dẫn, hỗ trợ học sinh điều chỉnh hoạt động học của bản thân.

Kiểm tra, đánh giá nếu được tiến hành thường xuyên, hiệu quả thì giúp cho học sinh củng cố tri thức, phát triển trí tuệ và điều chỉnh cách học; dần hình thành nhu cầu, thói quen tự kiểm tra – đánh giá, nâng cao trách nhiệm học tập, bồi dưỡng tính tự giác, ý chí vươn lên.

  1. Đánh giá - công cụ hành nghề quan trọng của giáo viên.

Giáo viên là người trực tiếp tác động tạo ra những thay đổi ở người học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Muốn xác định người học – đối tượng của quá trình giáo dục đáp ứng như thế nào so với mục tiêu giáo dục đã đề ra thì người giáo viên phải tiến hành kiểm tra, đánh giá. Kết quả kiểm tra, đánh giá thu được trên cơ sở tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin (do sử dụng đa dạng các loại hình kiểm tra, đánh giá) có ý nghĩa rất quan trọng để đi đến những dự báo về năng lực học tập, nhận định về điểm mạnh, điểm yếu của học sinh, quyết định đánh giá/định giá khách quan, điều chỉnh kịp thời nội dung, phương pháp giáo dục.

  1. Đánh giá - bộ phận quan trọng của quản lý chất lượng dạy và học.

Bản chất của kiểm tra, đánh giá là cung cấp thông tin nhằm xác định xem mục tiêu của chương trình giáo dục đạt được hay chưa, mức độ đạt được thế nào... Các thông tin khai thác được từ kết quả kiểm tra, đánh giá sẽ rất hữu ích cho các nhà quản lý, cho giáo viên, giúp họ giám sát quá trình giáo dục, phát hiện các vấn đề, đưa ra quyết định kịp thời về người học, về người dạy, về chương trình và điều kiện thực hiện chương trình...để đạt được mục tiêu.

Kiểm tra, đánh giá luôn được xem là phương thức quan trọng để giám sát, quản lý con người trong một lớp học và trong tổ chức vận hành nhà trường.

Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định đổi mới kiểm tra, đánh giá là khâu đột phá nhằm thúc đẩy các hoạt động khác như đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, đổi mới công tác quản lý giáo dục ... nhằm thực nhằm thực hiện thành công Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Câu 2: Chức năng của đánh giá trong giáo dục:

Chức năng đánh giá của giáo dục

  • Chuẩn đoán các vấn đề của người học
  • Xác nhận kết quả học tập của người học
  • Hỗ trợ hoạt động học tập cho người học

-Điều chỉnh hoạt động giảng dạy của người dạy.

Chức năng của đánh giá giáo dục được hiểu là sự tác động của quá trình đánh giá lên đối tượng đánh giá được phát huy chi trước và sau đó đánh giá theo chiều hướng mà chủ thể đánh giá Mong muốn. chức năng của đánh giá giáo dục tùy thuộc vào mục đích đánh giá mục đích đánh giá khác nhau câu đánh giá sẽ thực hiện các chức năng khác nhau từ đây i có thể xác định ảnh những chức năng chủ yếu trong đánh giá giáo dục

 Chức năng định hướng

1.Đảm bảo tính khách quan

Là yêu cầu cơ bản trong đánh giá. Đánh giá đảm bảo tính khách quan là phản ánh được chính xác kết quả học tập như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu đặt ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá. Cần ngăn ngừa các yếu tố dẫn đến đánh giá không chính xác như:

  • Yếu tố từ phía người đánh giá như trạng thái tâm lý, định kiến cũng như năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm.
  • Yếu tố từ phía người được đánh giá như tâm trạng, sức khỏe, tính trung thực.
  • Công cụ đánh giá không đảm bảo các yêu cầu để đánh giá chính xác, thể hiện ở thiết kế các câu hỏi kiểm tra và các thang đo. Ngoài ra, môi trường diễn ra quá trình kiểm tra, đánh giá cũng có ảnh hưởng đến tính khách quan của đánh giá. Cần xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng, phù hợp với đặc thù môn học và công khai các tiêu chí này cho học sinh. Bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá; ngăn ngừa thái độ đối phó, thiếu trung thực trong viết tiểu luận, kiểm tra, thi cử
  • Đảm bảo tính công bằng

Đánh giá đảm bảo công bằng là phải tạo điều kiện cho tất cả học sinh có cơ hội như nhau để thể hiện kết quả học tập; kết quả đánh giá phải phản ánh đúng kết quả học tập của họ. Người đánh giá và người được đánh giá đều hiểu tiêu chí, hành vi đánh giá như nhau. Để thực hiện yêu cầu này, cần lưu ý:

  • Không có sự phân biệt và thiên vị khi đánh giá. Cần tránh những ảnh hưởng từ các yếu tố như chủng tộc, giới tính, địa vị kinh tế - xã hội, môi trường sống.
  • Cần cho tất cả học sinh được biết về phạm vi sẽ đánh giá nhằm giúp định hướng quá trình học tập, ôn tập. - Giúp học sinh có kĩ năng làm bài kiểm tra trước khi tiến hành kiểm tra, đánh giá.
  • Tiêu chí đánh giá cũng như kết quả đánh giá phải được công bố công khai và kịp thời cho học sinh.
  • Đảm bảo tính toàn diện

Đánh giá phải bao quát được các mặt, các khía cạnh cần đánh giá theo yêu cầu, mục tiêu giáo dục, đặc biệt là các mục tiêu về năng lực – mục tiêu phức hợp. Năng lực học sinh không chỉ bao gồm kiến thức, kỹ năng mà còn là thái độ, ý chí của học sinh trước nhiệm vụ cần giải quyết trong hoạt động học; năng lực không chỉ phản ánh ở sự hiểu biết mà là những gì học sinh có thể làm với những điều họ biết. Để đánh giá toàn diện, đầy đủ, chính xác các mục tiêu đã xác định, cần lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp kiểm tra, đánh giá.

  1. Đảm bảo thường xuyên, có hệ thống

Đánh giá cần được tiến hành đều đặn, theo kế hoạch nhất định, như là một bộ phận của quá trình dạy học. Số lần kiểm tra, đánh giá trong học kì phải đủ để cung cấp kịp thời phản hồi cho giáo viên, học sinh; giúp điều chỉnh hiệu quả hoạt động dạy và học. Hơn nữa, đánh giá thường xuyên sẽ cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, tạo cơ sở để đánh giá kết quả học tập một cách khách quan, công bằng, toàn diện.

  1. Đảm bảo tính hiệu quả

Đánh giá phải phù hợp với công sức và thời gian tiến hành kiểm tra, đánh giá (thời gian chuẩn bị, thời gian tổ chức thực hiện, thời gian chấm điểm, công bố kết quả); chi phí công sức, thời gian ít nhưng vẫn đảm bảo giá trị và tin cậy thì được coi là hiệu quả.

6 .Đảm bảo tính phát triển

Kết quả học tập đo lường trong quá trình dạy học chỉ thể hiện một mặt nào đó năng lực học sinh và mang tính thời điểm; bằng sự nỗ lực của bản thân, với sự hỗ trợ của giáo viên, học sinh có thể cải thiện kết quả học tập. Do vậy, kiểm tra – đánh giá không chỉ là việc xác định mức độ đáp ứng mục tiêu dạy học mà còn là việc công bố kết quả đánh giá kịp thời, khéo léo tạo yếu tố tâm lí tích cực, động viên học sinh vươn lên, thúc đẩy mặt tốt, hạn chế mặt tiêu cực. Đối với học sinh còn nhỏ, đánh giá thể hiện qua lời nhận xét là quan trọng, giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận phản hồi và điều chỉnh hành vi.

Quy định về kiểm tra, đánh giá theo Điều lệ trường THCS, THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm Thông tư số 32/2020/TT-BGDĐT ngày 15/9/2020 đã đặt ra các yêu cầu này và giáo viên trong toàn quốc cần thực hiện tốt: “Việc kiểm tra, đánh giá học sinh được thực hiện theo quy định của chương trình GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành; bảo đảm tính toàn diện, công bằng, trung thực, khách quan, vì sự tiến bộ của học sinh, coi trọng việc động viên khuyến khích học sinh tiến bộ; chú trọng đánh giá quá trình học tập của học sinh; đánh giá bằng nhiều phương pháp, hình thức, kỹ thuật và công cụ khác nhau; không so sánh học sinh này với học sinh khác và không gây áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh”.

  1. Đảm bảo đánh giá trong bối cảnh thực tiễn

Để chứng minh người học có phẩm chất và năng lực ở mức độ nào đó, phải tạo cơ hội để họ giải quyết vấn đề trong bối cảnh mang tính thực tiễn. Đánh giá trong bối cảnh thực tiễn là nguyên tắc gắn với yêu cầu

  1. Phù hợp với đặc thù môn học (đối với đánh giá trong dạy học)

Mỗi môn học có những đặc thù riêng về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học. Vì vậy, việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá cần phù hợp với đặc thù của môn học nhằm đánh giá hiệu quả mục tiêu giáo dục môn học, đặc biệt là các mục tiêu về năng lực đặc thù cần hình thành, phát triển ở học sinh.

Câu 4: Triết lý đánh giá trong giáo dục

Triết lý đánh giá phát triển năng lực thực chất là quan điểm hiện đại về kiểm tra, đánh giá, trong đó chú trọng đến đánh giá quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập của người học. Quan điểm này chú trọng hai triết lý đánh giá hiện đại: xem đánh giá như là hoạt động học tập và đánh giá là để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động học tập. Đây là điểm khác biệt cơ bản của đánh giá hiện đại so với đánh giá truyền thống (đánh giá truyền thống chú trọng đánh giá kết quả học tập cuối cùng- đánh giá tổng kết).

Triết lý đánh giá phát triển năng lực thực chất là quan điểm hiện đại về kiểm tra, đánh giá, trong đó chú trọng đến đánh giá quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập của người học. Quan điểm này chú trọng hai triết lý đánh giá hiện đại: xem đánh giá như là hoạt động học tập và đánh giá là để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động học tập. Đây là điểm khác biệt cơ

  • Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế.
  • Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và xã hội. Các định hướng trên phản ánh các xu hướng dịch chuyển từ đánh giá truyền thống sang đánh giá hiện đại trong giáo dục như sau:
  • Chuyển dần trọng tâm từ đánh giá kết quả học tập cuối cùng sang đánh giá cả quá trình học tập, đảm bảo cho việc đánh giá được toàn diện hơn. Đồng thời, giúp học sinh điều chỉnh trong quá trình học tập để đạt được các mục tiêu học tập đề ra.
  • Chuyển việc đánh giá như là một hoạt động tách rời quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá là một phần của kế hoạch dạy học. Xu hướng đổi mới đánh giá này phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học từ truyền thụ tri thức một chiều sang tổ chức hoạt động học chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh.
  • Chuyển từ giữ kín sang công khai các tiêu chí đánh giá nhằm làm tăng tính minh bạch, khách quan của việc đánh giá, nâng cao trách nhiệm của người đánh giá và mở ra cơ hội để người học tự đánh giá.
  • Chuyển từ đánh giá một chiều (giáo viên đánh giá) dựa trên ít thông tin sang đánh giá đa chiều (không chỉ giáo viên mà học sinh cùng tham gia đánh giá - tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng) dựa trên thông tin đa dạng. Các ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay làm cho sự dịch chuyển này trở nên khả thi và ngày càng hiệu quả.
  • Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng, hành vi đơn lẻ sang đánh giá năng lực của người học: “thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí..ực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”. Các năng lực của học sinh theo quy định trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 bao gồm 3 năng lực chung và 7 năng lực đặc thù:
  • Năng lực chung bao gồm: năng lực tự chủ và tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
  • Năng lực đặc thù bao gồm: năng lực ngôn ngữ; năng lực tính toán; năng lực khoa học; năng lực công nghệ; năng lực tin học; năng lực thẩm mĩ; năng lực thể chất
  • Các phẩm chất bao gồm: yêu nước; nhân ái, trách nhiệm; trung thực; chăm chỉ.

Kiểm tra, đánh giá năng lực người học Đánh giá năng lực là một quá trình thu thập minh chứng về một học sinh (những gì HS nói, viết, làm và tạo ra) trong một lĩnh vực học tập, nhằm hỗ trợ việc đánh giá về vị trí của HS trên đường năng lực từ mức thấp đến mức cao: ghi nhận những gì HS biết và có thể làm và những gì HS cần học tiếp một cách chủ động, tích cực. Qua đó, GV có thể điều chỉnh hoạt động dạy học và báo cáo kết quả học tập của HS một cách tin cậy.

Đánh giá năng lực không chỉ là việc đo lường, rút ra nhận xét về khả năng thực hiện nhiệm vụ hoặc hành động học tập; nó bao hàm việc đo lường, nhận xét về khả năng tiềm ẩn của HS và đo lường, nhận xét việc sử dụng những kiến thức, kĩ năng, thái độ để thực hiện nhiệm vụ

học tập tới một chuẩn nào đó. Đánh giá năng lực của HS phải dựa vào thu thập các thông tin trong cả quá trình thực hiện nhiệm vụ chứ không phải chỉ dựa vào sản phẩm cuối cùng. Ngoài ra, cần chú ý đến tâm lý HS trong quá trình nhận và thực hiện nhiệm vụ. Quy trình đánh giá năng lực người học bao gồm các bước sau đây:

Bước 1: Xác định mục đích đánh giá và lựa chọn năng lực cần đánh giá

Bước 2: Định nghĩa năng lực và xác định cấu trúc năng lực

Bước 3: Xác định các phương pháp đánh giá

Bước 4: Xác định và xây dựng các công cụ đánh giá

Bước 5: Thực hiện đánh giá và xử lí số liệu Ví dụ, để đánh giá NL tự chủ và tự học trong dạy học, giáo viên cần xác định các tiêu chí cần đánh giá (ví dụ: tìm kiếm tài liệu, đọc tài liệu, khai thác kênh hình, lập sơ đồ, bảng,...); Có thể sử dụng các phương pháp đánh giá khác nhau như phương pháp quan sát (quan sát quá trình tự học của HS dựa vào bảng tiêu chí); phương pháp hỏi đáp (hỏi HS về thời gian, kế hoạch tự học môn KHTN); phương pháp viết (thiết kế bài tập đa dạng, yêu cầu HS xử lí thông tin và trả lời câu hỏi, bài tập). Để đánh giá NL tự học, có thể sử dụng đa dạng các công cụ khác nhau như câu hỏi, bài tập, bảng hỏi, bảng kiểm, rubric, thang đo...

Năng lực được hình thành và phát triển qua một quá trình từ thấp đến cao. Vì vậy cần chú trọng đến đánh giá quá trình để có thể nhận biết được sự phát triển năng lực của học sinh. Mặt khác, khi áp dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết các tình huống thực tiễn thì học sinh không chỉ sử dụng kiến thức của một lĩnh vực mà có thể cần sử dụng tổng hợp các kiến thức của nhiều lĩnh vực. Vì thế, các nhiệm vụ được đưa ra để đánh giá năng lực HS cần phải được đặt trong bối cảnh cụ thể

Kiểm tra, đánh giá phẩm chất người học Trong tiếng Việt, phẩm chất được hiểu là “cái làm nên giá trị của người hay vật”. Trong giáo dục cũng như trong đời sống, phẩm chất (đức) được đánh giá bằng hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội và có giá trị xã hội, đồng thời mang tính ổn định, còn năng lực (tài) được đánh giá bằng hiệu quả của hành động. Như vậy, phẩm chất là những đức tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của cá nhân, cùng với năng lực tạo nên nhân cách toàn diện của cá nhân. Trong nhà trường phổ thông, phẩm chất đạo đức của học sinh luôn được hình thành thông qua hoạt động dạy học các môn học và qua hoạt động giáo dục trải nghiệm. Dưới góc độ lý thuyết, phẩm chất được thể hiện thông qua hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là thước đo để đánh giá phẩm chất của học sinh. Tuy nhiên, trong thực tế, phẩm chất đạo đức được thể hiện thông qua các hành động/hành vi của năng lực, bởi nếu những hành động nếu không xuất phát từ những chuẩn mực xã hội, không có động cơ, ý thức, thái độ phù hợp, khó có thể thực hiện có kết quả hành động đó. Như vậy, để đánh giá phẩm chất, giáo viên có thể đánh giá thông qua hành vi đạo đức trong ứng xử hoặc thông qua các hành động học tập của học sinh. Ở mối phẩm chất, đều có những yêu cầu cần đạt riêng. Đây được coi là chuẩn đánh giá phẩm chất (tiêu chí chất lượng hành vi- mức mong muốn) khi giáo viên đánh giá phẩm chất của học sinh.

Ví dụ: Để đánh giá phẩm chất Nhân ái của học sinh THCS, giáo viên cần đánh giá xem học sinh đạt được mức độ nào so với các yêu cầu cần đạt (hành vi mong đợi hoặc tiêu chí chất lượng hành vi) của phẩm chất này.

Là giáo viên tương lai, anh (chị) sẽ thực hiện đánh giá kết quả học tập của học sinh theo

(đánh giá tổng kết). ĐGTX được xem là đánh giá vì quá trình học tập hoặc vì sự tiến bộ của người học.

  • Mục đích đánh giá thường xuyên:
  • Mục đích của ĐGTX nhằm thu thập các minh chứng liên quan đến kết quả học tập của HS trong quá trình học để cung cấp những phản hồi cho HS và GV biết những gì họ đã làm được so với mục tiêu, yêu cầu của bài học, của chương trình và những gì họ chưa làm được để điều chỉnh hoạt động dạy và học. ĐGTX đưa ra những khuyến nghị để HS có thể làm tốt hơn những gì mình chưa làm được, từ đó nâng cao kết quả học tập trong thời điểm tiếp theo.
  • ĐGTX còn giúp chẩn đoán hoặc đo kiến thức và kĩ năng hiện tại của HS nhằm dự báo hoặc tiên đoán những bài học hoặc chương trình học tiếp theo cần được xây dựng thế nào cho phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lí của HS. Có sự khác nhau về mục đích đánh giá của ĐGTX và đánh giá định kỳ (ĐGĐK). ĐGTX có mục đích chính là cung cấp kịp thời thông tin phản hồi cho GV và HS để điều chỉnh hoạt động dạy và học, không nhằm xếp loại thành tích hay kết quả học tập. ĐGTX không nhằm mục đích đưa ra kết luận về kết quả giáo dục cuối cùng của từng HS. Ngoài việc kịp thời động viên, khuyến khích khi HS thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, ĐGTX còn tập trung vào việc phát hiện, tìm ra những thiếu sót, lỗi, những nhân tố ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập, rèn luyện của HS để có những giải pháp hỗ trợ điều chỉnh kịp thời, giúp cải thiện, nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục. Trong khi mục đích chính của ĐGĐK là xác định mức độ đạt thành tích của HS, mà ít quan tâm đến việc thành tích đó HS đã đạt được ra sao/ bằng cách nào và kết quả đánh giá này được sử dụng để xếp loại, công nhận HS đã hoàn thành hoặc chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập.
  • Nội dung đánh giá thường xuyên:

ĐGTX tập trung vào các nội dung sau:

  • Sự tích cực, chủ động của HS trong quá trình tham gia các hoạt động học tập, rèn luyện được giao: GV không chỉ giao nhiệm vụ, xem xét HS có hoàn thành hay không, mà phải xem xét từng HS hoàn thành thế nào (có chủ động, tích cực, có khó khăn gì... có hiểu rõ mục tiêu học tập và sẵn sàng thực hiện...). GV thường xuyên theo dõi, thông báo về sự tiến bộ của HS nhằm đạt được các mục tiêu học tập/giáo dục;
  • Sự hứng thú, tự tin, cam kết, trách nhiệm của HS khi thực hiện các hoạt động học tập cá nhân: HS tham gia thực hiện các nhiệm vụ học tập cá nhân có thể hiện tính trách nhiệm, có hứng thú, có thể hiện sự tự tin... Đây là những chỉ báo quan trọng để xác định xem HS cần hỗ trợ gì trong học tập, rèn luyện.
  • Thực hiện các nhiệm vụ hợp tác nhóm: Thông qua các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo nhóm (kể cả hoạt động tập thể), GV quan sát... để đánh giá HS.

Thời điểm đánh giá thường xuyên:

Thực hiện linh hoạt trong quá trình dạy học và giáo dục, không bị giới hạn bởi số lần đánh giá. Mục đích chính là khuyến khích HS nỗ lực học tập, vì sự tiến bộ của người học.

Người thực hiện đánh giá thường xuyên Đối tượng tham gia ĐGTX rất đa dạng, bao gồm: GV đánh giá, HS tự đánh giá, HS đánh giá chéo, cha mẹ học sinh đánh giá và đoàn thể, cộng đồng đánh giá.

Phương pháp, công cụ đánh giá thường xuyên:

Phương pháp kiểm tra, ĐGTX có thể sử dụng cả kiểm tra viết, quan sát và hỏi đáp, đánh giá thông qua sản phẩm. Công cụ có thể dùng là phiếu quan sát, các thang đo, bảng kiểm, thẻ kiểm tra/phiếu kiểm tra, các phiếu đánh giá tiêu chí, hồ sơ học tập, câu hỏi, bài tập... GV có thể thiết kế các công cụ phù hợp với từng tình huống, bối cảnh đánh giá. Công cụ sử dụng trong ĐGTX có thể được điều chỉnh để đáp ứng mục tiêu thu thập những thông tin hữu ích điển hình ở từng HS, không nhất thiết dẫn tới việc cho điểm.

Các yêu cầu, nguyên tắc của đánh giá thường xuyên

  • Cần xác định rõ mục tiêu để từ đó xác định được phương pháp hay kỹ thuật sử dụng trong ĐGTX.
  • Các nhiệm vụ ĐGTX được đề ra nhằm mục đích hỗ trợ, nâng cao hoạt động học tập. ĐGTX nhấn mạnh đến tự đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chí của bài học và phương hướng cải thiện để đáp ứng tốt hơn nữa.
  • Việc nhận xét trong ĐGTX tập trung cung cấp thông tin phản hồi chỉ ra các nội dung cần chỉnh sửa, đồng thời đưa ra lời khuyên cho hành động tiếp theo (ngay trước mắt HS phải làm gì... và làm bằng cách nào)?
  • Không so sánh HS này với HS khác, hạn chế những lời nhận xét tiêu cực, trước sự chứng kiến của các bạn học, để tránh làm thương tổn HS.
  • Mọi HS đều có thể thành công, GV không chỉ đánh giá kiến thức, kỹ năng... mà phải chú trọng đến đánh giá các năng lực, phẩm chất (tự quản, tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề... tự tin, trách nhiệm, đoàn kết yêu thương) trên nền cảm xúc/ niềm tin tích cực... để tạo dựng niềm tin, nuôi dưỡng hứng thú học tập.
  • ĐGTX phải thúc đẩy hoạt động học tập, tức là giảm thiểu sự trừng phạt/ đe dọa/ chê bai HS, đồng thời tăng sự khen ngợi, động viên.

Đánh giá thường xuyên

Học kì 1 Học kì 2

Hình thức

Vấn đáp Thực hành Bài viết 15 phút

Vấn đáp Bài viết 15 phút

Thời gian

Các tiết trong tuần

Tuần 5 Tuần 10 Các tiết trong tuần

Tuần 21, tuần 26

Nội dung đánh giá

Kiến thức nội dung bài cũ, tìm tòi kiến thức mới trong tiết học

Quan sát tế bào Tiêu hóa ở khoang miệng

Kiến thức nội dung bài cũ, tìm tòi kiến thức mới

 Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu

Phương pháp ĐGĐK có thể là kiểm tra viết trên giấy hoặc trên máy tính; sản phẩm, hồ sơ, hỏi đáp, quan sát. Công cụ ĐGĐK có thể là các câu hỏi, bài kiểm tra, dự án học tập, sản phẩm học tập, hồ sơ học tập...

Phương pháp kiểm tra viết trên giấy hoặc trên máy tính thường được sử dụng sau khi học xong một phần, sau khi học xong một chương hoặc nhiều chương, sau khi học xong học kì hoặc năm học. Công cụ của phương pháp kiểm tra viết là các bài kiểm tra viết gồm các câu hỏi và bài tập. HS thường làm các bài kiểm tra định kì trong khoảng thời gian 45 phút hoặc 60 phút. Ngoài ra, GV có thể sử dụng phương pháp đánh giá thông qua sản phẩm học tập của HS. Sản phẩm học tập của HS có thể là thiết bị, mô hình, video, poster, tập san, tranh vẽ... Các sản phẩm học tập thường gắn liền với việc giải quyết nhiệm vụ học tập có liên hệ với thực tiễn cuộc sống.

  • Các yêu cầu, nguyên tắc của đánh giá định kỳ:
  • Đa dạng hoá trong sử dụng các phương pháp và công cụ đánh giá.
  • Chú trọng sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá được những biểu hiện cụ thể về thái độ, hành vi, kết quả sản phẩm học tập của HS gắn với các chủ đề học tập và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS.
  • Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá trên máy tính để nâng cao năng lực tự học cho HS

Đánh giá định kỳ

Học kì 1 Học kì 2

Đánh giá giữa kì 1

Đánh giá cuối kì 1

Đánh giá giữa kì 2

Đánh giá cuối kì 2

Hình thức

Bài kiểm tra viết trên giấy

Bài kiểm tra viết trên giấy

Báo cáo thực hành

Bài kiểm tra viết trên giấy

Số lượng 1 bài 1 bài 1 bài 1 bài

Thời gian

Tuần học 10 Tuần học 17 Tuần học 25 Tuần học 34

Nội dung đánh giá

Năng lực sinh học:

  • Nêu những điểm khác nhau giữa NST thường và NST giới tính

Năng lực sinh học:

  • Nêu được các khái niệm: kiểu gen, kiểu hình,

Năng lực sinh học: Tìm hiểu môi trường sống và ảnh hưởng của

Năng lực sinh học:

  • Trình bày được nguyên nhân, biện pháp làm
  • Mô tả cấu trúc không gian của ADN, ARN.
  • Bài tập lai một cặp tính trạng.
  • Tính tổng số nucleotit của genính chiều dài của genính số liên kết hidroối lượng phân tử AND. Phẩm chất: chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

cặp tính trạng tương phản, giống thuần chủng, ...

  • Nêu được cấu trúc của gen, DNA và quá trình tái bản.
  • Trình bày được quá trình nguyên phân và giảm phân. Tính được số tế bào con tạo ra trong quá trình nguyên phân.
  • Tính được số nucleotit mỗi loại trong DNA. Phẩm chất: chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

một số nhân tố sinh thái lên đời sống sinh vật ở địa phương.

  • Xác định được các môi trường sống, các yếu tố ảnh hưởng.
  • Đặc điểm của động, thực vật trong hệ sinh thái.
  • Nhận xét được về môi trường đã quan sát.

Phẩm chất: chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

giảm ô nhiễm môi trường.

  • Phân tích đuộc các mối quan hệ khác loài.
  • Xác định được đặc điểm của các loài động vật, thực vật ở môi trường sống khác nhau.

Phẩm chất: chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

Người thực hiện

GV bộ môn.(GV xây dựng đề kiểm tra dựa theo chương trình chuẩn của bộ giáo dục; ký duyệt tổ chuyên môn , nhà trường.)

Tổ chức kiểm tra định kì theo chỉ đạo của phòng giáo dục.

GV bộ môn. Tổ chức kiểm tra định kì theo chỉ đạo của phòng giáo dục.

Phương pháp và công cụ

Làm bài kiểm tra trên giấy với thời gian 45 phút.

Thực hiện kiểm tra theo lịch chung của toàn khốiàm bài kiểm tra trên giấy với thời gian làm bài 45 phút.

Quan sát HS trong quá trình thực hành. Đánh giá báo cáo thực hành của từng cá nhân HS. Xây dựng hướng dẫn và tiêu chí đánh giá cụ thể.

Thực hiện kiểm tra theo lịch chung của toàn khốiàm bài kiểm tra trên giấy với thời gian làm bài 45 phút.

  • Sự hứng thú, tự tin, cam kết, trách nhiệm của HS khi thực hiện các hoạt động học tập cá nhân -Thực hiện các nhiệm vụ hợp tác nhóm: Thông qua các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo nhóm (kể cả hoạt động tập thể), GV quan sát... để đánh giá HS.

Thời điểm

  • Thực hiện linh hoạt trong quá trình dạy học và giáo dục, không bị giới hạn bởi số lần đánh giá. Mục đích chính là khuyến khích HS nỗ lực học tập, vì sự tiến bộ của người học.
  • Đánh giá định kỳ thường được tiến hành sau khi kết thúc một giai đoạn học tập (giữa kỳ, cuối kỳ).

Chủ thể - Đối tượng bao gồm: GV đánh giá, HS tự đánh giá, HS đánh giá chéo, cha mẹ học sinh đánh giá và đoàn thể, cộng đồng đánh giá.

  • Người thực hiện đánh giá định kỳ có thể là: GV đánh giá, nhà trường đánh giá và tổ chức kiểm định các cấp đánh giá.

Phương pháp, công cụ

  • Phương pháp kiểm tra, ĐGTX có thể sử dụng cả kiểm tra viết, quan sát và hỏi đáp, đánh giá thông qua sản phẩm.
  • Công cụ có thể dùng là phiếu quan sát, các thang đo, bảng kiểm, thẻ kiểm tra/phiếu kiểm tra, các phiếu đánh giá tiêu chí, hồ sơ học tập, câu hỏi, bài tập... GV có thể thiết kế các công cụ phù hợp với từng tình huống, bối cảnh đánh giá.
  • Kiểm tra viết trên giấy hoặc trên máy tính; sản phẩm, hồ sơ, hỏi đáp, quan sát. Công cụ ĐGĐK có thể là các câu hỏi, bài kiểm tra, dự án học tập, sản phẩm học tập, hồ sơ học tập...

Yêu cầu – Cần xác định rõ mục tiêu để từ đó xác định được phương pháp hay kỹ thuật sử dụng. - Các nhiệm vụ ĐGTX được đề ra nhằm mục đích hỗ trợ, nâng cao hoạt động học tập. ĐGTX nhấn mạnh đến tự đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chí của bài học và phương hướng cải thiện để đáp ứng tốt hơn nữa. - Việc nhận xét trong ĐGTX tập

  • Đa dạng hoá trong sử dụng các phương pháp và công cụ đánh giá.
  • Chú trọng sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá được những biểu hiện cụ thể về thái độ, hành vi, kết quả sản phẩm học tập của HS gắn với các chủ đề học tập và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS.
  • Tăng cường sử dụng công nghệ thông

trung cung cấp thông tin phản hồi chỉ ra các nội dung cần chỉnh sửa, đồng thời đưa ra lời khuyên cho hành động tiếp theo (ngay trước mắt HS phải làm gì... và làm bằng cách nào)?

  • Không so sánh HS này với HS khác, hạn chế những lời nhận xét tiêu cực, trước sự chứng kiến của các bạn học, để tránh làm thương tổn HS.
  • Mọi HS đều có thể thành công, GV không chỉ đánh giá kiến thức, kỹ năng... mà phải chú trọng đến đánh giá các năng lực, phẩm chất (tự quản, tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề... tự tin, trách nhiệm, đoàn kết yêu thương) trên nền cảm xúc/ niềm tin tích cực... để tạo dựng niềm tin, nuôi dưỡng hứng thú học tập.
  • ĐGTX phải thúc đẩy hoạt động học tập, tức là giảm thiểu sự trừng phạt/ đe dọa/chê bai HS, đồng thời tăng sự khen ngợi, động viên.

tin trong kiểm tra, đánh giá trên máy tính để nâng cao năng lực tự học cho HS

Câu 7: Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:

Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);

Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kỹ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, ... sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;

Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;

Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,...). Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,...

Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính logic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thông và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, logic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.

BẢNG SO SÁNH:

ST

T

Đánh giá theo hướng tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực

1

Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì,...

Nhiều bài kiểm tra đa dạng (giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm...) trong suốt quá trình học tập

2 Nhấn mạnh sự cạnh tranh Nhấn mạnh sự hợp tác

3

Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học

Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp rèn luyện của học sinh

4 Chú trọng vào điểm số

Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét

5 Tập trung vào kiến thức hàn lâm Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo

6

Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công nhận

Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh

ST

T

Đánh giá theo hướng tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực

7

Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua...

Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân

Câu 8. Các công cụ đánh giá trong giáo dục

  • Câu hỏi
  • Bài tập
  • Bảng kiểm
  • Thang đánh giá
  • Bảng đánh giá theo tiêu chí

Trả lời:

  • Câu hỏi

Khái niệm: “ Câu hỏi là dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một nhu cầu, một đòi hỏi hay một mệnh lệnh cần được giải quyết”

→ Câu hỏi là công cụ phổ biến được dùng trong phương pháp hỏi- đáp, kiểm tra viết tự luận, trắc nghiệm, bảng hỏi ngắn, thẻ kiểm tra, bảng KWLH,...

Câu hỏi tự luận:

Ưu thế của câu hỏi tự luận chính là để đo lường, đánh giá những nhận thức ở mức độ cao ( các kỹ năng trình bày, diễn đạt,.. các khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá,..)

Câu hỏi tự luận mở: là loại câu hỏi có phạm vi trả lời rộng và khái quát. Học sinh tự do biểu đạt ý tưởng và kiến thức:

 Câu tự luận giới hạn, có cấu trúc: Các câu hỏi được diễn đạt chi tiết, phạm vi câu hỏi được nêu rõ để người trả lời biết được độ dài ước chừng của câu trả lời.

Ưu thế : Bài kiểm tra với loại câu hỏi này thường có nhiều câu hỏi hơn bài tự luận mở rộng, nó đề cập đến những vấn đề cụ thể, nội dung hẹp hơn nên đỡ mơ hồ hơn đối với người trả lời, việc chấm điểm dễ dàng hơn và có độ tin cậy cao hơn.

Câu hỏi tương ứng với các mức độ nhận thức

 Câu hỏi : “biết/nhớ”:

Mục tiêu câu hỏi “nhớ” nhằm kiểm tra trí nhớ của học sinh về các dữ kiện, số liệu, tên người hoặc địa phương, các định nghĩa, định luật, quy tắc, khái niệm,..

Đánh giá và kiểm tra khác nhau như thế nào?

Kiểm tra, đánh giá là hai mặt của một quá trình, kiểm tra là thu thập thông tin, số liệu, bằng chứng về kết quả đạt được, đánh giá là so sánh đối chiếu với mục tiêu dạy học đưa ra những phán đoán kết luận về thực trạng và nguyên nhân của kết quả đó.

Sử dụng kết quả kiểm tra đánh giá trọng dạy học để làm gì?

Mục tiêu của các hoạt động kiểm tra đánh giá như vậy là nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên bằng cách cung cấp cho giáo viên dữ liệu có thể chẩn đoán sự thiếu hụt kỹ năng, đo lường mức độ thành thạo các mục tiêu học tập dự định và lựa chọn phương pháp giảng dạy, học tập phù hợp.

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập là gì?

Đánh giá kết quả học tập của học sinh là việc thu thập thông tin trong hoặc sau quá trình học nhằm giúp thầy cô đưa ra các quyết định dạy và học phù hợp. Kết quả đánh giá cần thể hiện rõ kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học tại thời điểm đánh giá thông qua 3 câu hỏi: Học sinh biết gì (kiến thức)?

Tại sao cần phải kiểm tra đánh giá?

Kiểm tra đánh giá vì sự tiến bộ nghĩa là cung cấp những thông tin phản hồi giúp học sinh biết mình tiến bộ đến đâu, những mảng kiến thức/kỹ năng nào có sự tiến bộ, mảng kiến thức/kỹ năng nào còn yếu để điều chỉnh quá trình dạy và học.