Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

Mục lục

  • 1 Bối cảnh và nguyên nhân
  • 2 Giai đoạn đầu
  • 3 Chiến tranh du kích
  • 4 Tấn công cuối cùng và quân nổi dậy thắng lợi
  • 5 Chuyến thăm của Chủ tịch Fidel Castro tới Mỹ năm 1959
  • 6 Kết quả
    • 6.1 Kế hoạch lật đổ của Mỹ
  • 7 Chú thích
  • 8 Xem thêm
  • 9 Liên kết ngoài

Bối cảnh và nguyên nhânSửa đổi

Fulgencio Batista là tổng thống tuyển cử của Cuba từ 1940 đến 1944, ông đoạt quyền trong một cuộc chính biến quân sự và đình chỉ tuyển cử năm 1952, và bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống thứ nhì của mình vào tháng 3 năm 1952.[10] Mặc dù Batista là một người tương đối cấp tiến trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của mình,[11] song trong thập niên 1950 ông tỏ ra độc tài hơn nhiều và bàng quan trước những lo lắng của dân chúng.[12] Trong khi Cuba vẫn còn khó khăn do tỷ lệ thất nghiệp cao và hạn chế về cơ sở hạ tầng nước,[13] Batista bị dân chúng phản đối do việc ông ta thiết lập các mối quan hệ có lợi với tội phạm có tổ chức và cho phép các công ty Hoa Kỳ chi phối kinh tế Cuba.[13][14][15]

Show

Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của mình, Batista được Đảng Cộng sản Cuba ủng hộ,[11] song trong nhiệm kỳ tổng thống thứ nhì ông trở nên chống cộng mãnh liệt do được sự ủng hộ chính trị và viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ.[13][16] Batista phát triển một cơ sở an ninh có quyền lực lớn để trấn áp các đối thủ chính trị, Tổng thống Hoa Kỳ, John F. Kennedy mô tả Chính phủ Cuba là một "quốc gia cảnh sát toàn trị" vào năm 1960.[13] Trong những tháng sau cuộc đảo chính tháng 3 năm 1952, một luật sư và nhà hoạt động chính trị trẻ tuổi là Fidel Castro kiến nghị lật đổ Batista với cáo buộc tham nhũng và chuyên chế. Tuy nhiên, những tranh luận theo hiến pháp của Fidel Castro đều bị tòa án Cuba bác bỏ.[17]

Sau khi thấy rằng không thể lật đổ chính phủ Batista thông qua những phương thức pháp lý, Fidel Castro quyết định phát động một cách mạng vũ trang. Để thực hiện, Fidel Castro cùng em trai là Raúl Castro thành lập một tổ chức bán quân sự gọi là "Phong trào", tàng trữ vũ khí và tuyển mộ khoảng 1.200 người theo từ tầng lớp lao động bất mãn tại La Habana cho đến cuối năm 1952.[18]

Giai đoạn đầuSửa đổi

Fidel Castro và Raúl Castro tập hợp 123 chiến binh Phong trào và lập kế hoạch về một cuộc tấn công vào các căn cứ quân sự.[19] Ngày 26 tháng 7 năm 1953, quân nổi dậy thất bại khi tấn công Doanh trại Moncada tại Santiago và các doanh trại tại Bayamo.[4] Ngày 26/7/1953 được coi là sự kiện mở đầu của Cách mạng Cuba.

Có tranh luận về số liệu chính xác về số quân nổi dậy thiệt mạng trong giao tranh; tuy nhiên, trong tự truyện của mình, Fidel Castro tuyên bố rằng có chín người thiệt mạng trong giao tranh, và thêm 56 người bị giết sau khi bị chính phủ Batista bắt giữ.[20] Trong số những người thiệt mạng có Abel Santamaría, phó tư lệnh của Fidel Castro, nhân vật này bị hành hình cũng trong ngày 26 tháng 7.[21] Nhiều người, trong đó có Fidel và Raúl Castro, bị bắt ngay sau đó. Trong một phiên tòa mang tính chính trị cao độ, Fidel Castro nói gần bốn tiếng nhằm bào chữa cho mình, kết thúc bằng câu "Kết án tôi không phải là vấn đề. Lịch sử sẽ giải oan cho tôi." Fidel Castro bị kết án 15 năm trong trại giam Presidio Modelo, nằm trên đảo Thông, trong khi Raúl Castro bị kết án 13 năm.[22] Tuy nhiên, đến năm 1955, trước các áp lực chính trị, chính phủ Batista phóng thích toàn bộ tù nhân chính trị tại Cuba, trong đó có những người tấn công doanh trại Moncada. Giáo viên dòng Tên thời thiếu niên của Fidel Castro thành công trong việc thuyết phục Batista phóng thích cả Fidel và Raúl.[23]

Ngay sau đó, anh em nhà Castro kết giao với những người lưu vong khác tại Mexico nhằm chuẩn bị cho việc lật đổ Batista, tiếp nhận huấn luyện từ Alberto Bayo- một lãnh đạo của phe Cộng hòa trong Nội chiến Tây Ban Nha. Trong tháng 6 năm 1955, Fidel Castro gặp nhà cách mạng người Argentina Ernesto "Che" Guevara, Guevara tham gia đại nghiệp của Fidel Castro.[24] Những nhà cách mạng tự định danh là "Phong trào 26 tháng 7", nhằm ám chỉ ngày họ tấn công doanh trại Moncada vào năm 1953.

Chiến tranh du kíchSửa đổi

Thuyền buồm Granma đến Cuba vào ngày 2 tháng 12 năm 1956, chở theo anh em nhà Castro và 80 người khác thuộc Phong trào 26 tháng 7. Họ đổ bộ tại Playa Las Coloradas, thuộc đô thị Niquero, đến chậm hai ngày so với kế hoạch do thuyền chở nặng, không giống như khi chạy thử.[26] Điều này khiến cho hy vọng phối hợp tấn công với cánh llano của phong trào bị thất bại. Sau khi đến và rời khỏi tàu, nhóm quân nổi dậy bắt đầu lập kế hoạch tiến vào dãy núi Sierra Maestra tại miền đông nam Cuba. Ba ngày sau khi cuộc hành quân bắt đầu, quân của Batista tấn công và sát hại hầu hết những người từng đi trên Granma – dù con số tử vong chính xác còn có tranh cãi, song có không hơn 20 trong số 82 người ban đầu còn sống sau cuộc chạm trán ban đầu với quân đội Cuba và thoát được đến dãy Sierra Maestra.[27]

Nhóm những người sống sót gồm có Fidel Castro và Raúl Castro, Che Guevara và Camilo Cienfuegos. Họ phân tán, một mình hoặc trong các nhóm nhỏ, lang thang qua các núi, tìm kiếm lẫn nhau. Cuối cùng, họ lại liên kết lại được với sự trợ giúp của những người nông dân, và sau đó thành lập tập thể lãnh đạo đầu não của quân du kích. Celia Sanchez và Haydée Santamaría (chị của Abel Santamaria) nằm trong số những nhà cách mạng là nữ giới đã hỗ trợ cho Fidel Castro trong núi.[28]

Ngày 13 tháng 3 năm 1957, một nhóm cách mạng riêng biệt là Hội Đổng sự Cách mạng sinh viên (Directorio Revolucionario Estudantil) có tư tưởng chống cộng và hầu hết thành viên là sinh viên tiến hành tấn công Dinh Tổng thống tại La Habana, nỗ lực nhằm ám sát Batista và diệt trừ chính phủ. Cuộc tấn công kết thúc với thất bại hoàn toàn, lãnh đạo của tổ chức là José Antonio Echeverría thiệt mạng trong lúc đấu súng với lực lượng của Batista tại đài phát thanh của La Habana. Một nhóm những người sống sót gồm Humberto Castello, Rolando Cubela và Faure Chomon.[29]

Sau đó, Hoa Kỳ áp đặt cấm vận đối với chính phủ Cuba và triệu hồi đại sứ của mình, làm suy yếu chính phủ hơn nữa.[30] Sự ủng hộ của dân chúng Cuba đối với Batista bắt đầu mất dần, khi những người ủng hộ cũ hoặc gia nhập cách mạng hoặc là tách biệt với Batista. Tuy thế, Mafia và giới doanh nhân Hoa Kỳ duy trì sự ủng hộ của họ.[31]

Chính phủ phải thường xuyên dựa vào những phương pháp tàn bạo để duy trì quyền kiểm soát của chính phủ tại các thành thị của Cuba. Tuy nhiên, trong dãy Sierra Maestra, Fidel Castro với trợ giúp của Frank País, Ramos Latour, Huber Matos, và nhiều người khác, đã tổ chức thành công các cuộc tấn công vào những đồn nhỏ của quân Batista. Che Guevara và Raúl Castro trợ giúp Fidel Castro nhằm thống nhất quyền kiểm soát chính trị của ông trong dãy núi, thường là thông qua hành hình những nhân vật bị nghi ngờ là trung thành với Batista và những đối thủ khác của Castro.[32] Thêm vào đó, lực lượng dân quân gọi là escopeteros cũng quấy phá quân Batista tại những vùng chân núi và đồng bằng thuộc tỉnh Oriente. Lực lượng escopeteros cũng trực tiếp hỗ trợ quân sự cho quân chủ lực của Castro bằng cách bảo vệ đường tiếp tế và chia sẻ thông tin.[33] Kết quả là dãy núi này cuối cùng rơi vào tay lực lượng của Castro.

Raúl Castro (trái), cùng với Ernesto "Che" Guevara, tại thành trì của họ là núi Sierra de Cristal tại tỉnh Oriente, Cuba, năm 1958.

Ngoài việc đấu tranh vũ trang, quân nổi dậy còn sử dụng biện pháp tuyên truyền để nâng cao uy thế của họ. Một đài phát thanh bí mật, gọi là Radio Rebelde (Đài Phát thanh quân nổi dậy) được thiết lập tháng 2 năm 1958, cho phép Fidel Castro và lực lượng của ông phát các thông điệp của họ ra toàn quốc.[34] Các buổi phát thanh này có lẽ do một người quen cũ của Castro là Carlos Franqui tiến hành, người này cuối cùng lưu vong tại Puerto Rico.[35]

Trong suốt thời gian này, lực lượng của Fidel Castro còn rất nhỏ, có lúc không đầy 200 người, trong khi lực lượng quân đội và cảnh sát Cuba có từ 30.000 tới 40.000 người.[36] Tuy vậy, gần như mỗi khi quân Cuba giao tranh với quân nổi dậy, họ đều phải tháo lui. Lệnh cấm vận vũ khí do Hoa Kỳ áp chế với chính phủ Cuba vào ngày 14 tháng 3 năm 1958 góp phần làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng Batista. Không quân Cuba nhanh chóng trở nên rệu rã, họ không có khả năng sửa chữa máy bay một khi không thể nhập phụ tùng từ Hoa Kỳ nữa.[37]

Batista cuối cùng phải mở một chiến dịch tấn công lớn vào dãy núi mang tên Chiến dịch Verano, còn phe quân nổi dậy gọi là la Ofensiva. Quân chính phủ được đưa đến gồm 12.000 binh sĩ, trong số đó phân nửa gồm tân binh chưa được huấn luyện. Trong một loạt các cuộc chạm trán, lực lượng du kích đầy quyết tâm của Fidel Castro đánh bại quân chính phủ.[37] Trong trận La Plata, kéo dài từ 11 tháng 7 tới 21 tháng 7 năm 1958, quân của Fidel Castro đánh bại cả một tiểu đoàn quân chính phủ gồm 500 người, bắt được 240 tù binh, trong khi chỉ mất 3 người.[38] Tuy nhiên, thế trận đảo ngược vào ngày 29 tháng 7 năm 1958, khi quân Batista tiêu diệt gần hết lực lượng nhỏ chỉ gồm 300 người của Castro trong trận Las Mercedes. Với việc lực lượng cách mạng bị khống chế bởi lực lượng đối phương đông áp đảo, Fidel Castro phải đề nghị ngưng bắn tạm thời và được chấp thuận, đình chiến tạm thời bắt đầu vào ngày 1 tháng 8. Trong suốt bảy ngày tiếp đó, khi các cuộc thương thuyết vẫn tiếp diễn mà không mang lại kết quả gì, quân của Castro dần tẩu thoát khỏi vòng vây. Tới ngày 8 tháng 8, toàn bộ lực lượng của Castro đã trốn được vào dãy núi, và như vậy trên thực tế chiến dịch Verano là thất bại đối với chính phủ Batista.[37]

Tấn công cuối cùng và quân nổi dậy thắng lợiSửa đổi

Ngày 21 tháng 8 năm 1958, sau khi đánh bại chiến dịch Ofensiva của Batista, lực lượng của Castro bắt đầu thế tấn công. Trong tỉnh Oriente, Fidel Castro, Raúl Castro và Juan Almeida Bosque chỉ huy tấn công trên bốn mặt trận. Xuống núi với những vũ khí mới lấy được trong chiến dịch Ofensiva và nhờ nhập lậu bằng máy bay, lực lượng của Fidel Castro giành một loại thắng lợi ban đầu. Đại thắng của Fidel Castro tại Guisa, và chiếm được một số thị trấn bao gồm Maffo, Contramaestre, và Central Oriente, nắm quyền kiểm soát đồng bằng Cauto. Cùng lúc đó, ba cánh quân nổi dậy dưới quyền Che Guevara, Camilo Cienfuegos và Jaime Vega, tây tiến về Santa Clara, thủ phủ tỉnh Villa Clara. Lực lượng Batista phục kích và tiêu diệt cánh quân của Jaime Vega, nhưng hai cánh quân còn lại đến được các tỉnh trung tâm, và hợp lực với các lực lượng kháng chiến khác vốn không nằm dưới sự chỉ huy của Fidel Castro. Khi cánh quân của Che Guevara tiến qua tỉnh Las Villas, và đặc biệt là qua dãy núi Escambray – nơi lực lượng chống cộng Hội đổng sự Cách mạng (được biết đến với tên gọi Phong trào 13 tháng 3) tiến hành chiến tranh chống lại quân Batista trong suốt nhiều tháng – va chạm tăng lên giữa hai phe. Dù vậy, lực lượng nổi dậy hợp nhất vẫn tiếp tục chiến dịch, và Cienfuegos giành được một chiến thắng quan trọng trong trận Yaguajay ngày 30 tháng 12 năm 1958, khiến ông được mệnh danh "Người hùng Yaguajay".

Bản đồ thể hiện việc quân nổi dậy hành quân tại Cuba.

Ngày 31 tháng 12 năm 1958, trận Santa Clara diễn tra trong cảnh đại loạn, thành phố Santa Clara thất thủ trước quân nổi dậy hợp nhất của Che Guevara, Cienfuegos, quân nổi dậy Hội đổng sự Cách mạng (RD) dưới quyền Comandantes Rolando Cubela, Juan ("El Mejicano") Abrahantes, và William Alexander Morgan. Tin tức về những thất bại này khiến cho Batista hoảng sợ, ông tẩu thoát đến Cộng hòa Dominica chỉ vài giờ sau đó trong ngày 1 tháng 1 năm 1959. Chỉ huy quân nổi dậy Hội đổng sự Cách mạng là Comandante William Alexander Morgan tiếp tục chiến đấu khi Batista đã rời đi, và chiếm được thành phố Cienfuegos vào ngày 2 tháng 1.[39]

Castro biết tin về chuyến bay của Batista vào buổi sáng và ngay lập tức bắt đầu đàm phán để tiếp quản Santiago de Cuba. Ngày 2 tháng 1, sĩ quan tại thành phố là Đại tá Rubido lệnh cho các binh sĩ của ông ngừng chiến đấu, và quân của Fidel Castro tiếp quản thành phố. Quân của Guevara và Cienfuegos tiến vào La Habana khoảng đồng thời. Họ không gặp kháng cự trên hành trình từ Santa Clara đến thủ đô của Cuba. Fidel Castro đến La Habana vào ngày 8 tháng 1 sau một cuộc diễn hành thắng lợi kéo dài. Ông ban đầu lựa chọn Manuel Urrutia Lleó làm chủ tịch, người này nhậm thức vào ngày 3 tháng 1.[40]

Lập niên biểu diễn biến cách mạng qua các giai đoạn. Tại sao nói : Thời kì chuyên chính Giacôbanh là đỉnh cao của Cách mạng tư sản Pháp ?

Đề bài

Lập niên biểu diễn biến cách mạng qua các giai đoạn. Tại sao nói: Thời kì chuyên chính Gia-cô-banh là đỉnh cao của Cách mạng tư sản Pháp?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Lời giải chi tiết

* Bảng niên biểu diễn biến thể hiện diễn biến các mạng Pháp qua các giai đoạn:

Các giai đoạn chính

Sự kiện

Nội dung sự kiện

Từ ngày 14-7-1789 đến

ngày 10-8-1792 (Chế độ quân chủ lập hiến)

Ngày 14-7-1789,

Khởi nghĩa của nhân dân Pari phá ngục Baxti

Tháng 8-1789,

thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.

Ngày 11-7-1792

Quốc hội tuyên bố “Tổ quốc lâm nguy” và ra sắc lệnh động viên quân tình nguyện.

Tháng 4-1792,

Hiến pháp được thông qua, xác lập chế độ quân chủ lập hiến.

Tháng 9-1791,

Chiến tranh giữa Pháp và liên quân phong kiến Áo - Phổ bùng nổ.

Từ ngày 10-8-1792 đến ngày 2-6-1793

(Bước đầu của nền cộng hòa)

Ngày 10-8-1792

Khởi nghĩa của nhân dân Pari lật đổ nền quân chủ lập hiến, chính quyền chuyển sang tay tư sản công thương được gọi là phái Girôngđanh.

Ngày 21-9-1792,

Quốc hội khai mạc, phế truất nhà vua, thiết lập nền Cộng hòa thứ nhất.

Ngày 21-1-1793,

Vua Lu-I XVI bị xử chém.

Từ ngày 2-6-1793 đến ngày 27-7-1794

(Chuyên chính dân chủ cách mạng Giacôbanh, Đỉnh cao của cách mạng)

Tháng 6-1793,

Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố chế độ cộng hòa.

Ngày 23-8-1793,

Thông qua sắc lệnh “Tổng động viên toàn quốc”.

Cách mạng Pháp đạt tới đỉnh cao.

Ngày 27-7-1794,

Trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng tiến hành đảo chính lật đổ phái Giacôbanh, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của phong trào.

Từ ngày 27-7-1794 đến ngày 09-11-1799

(Thoái trào cách mạng)

Tháng 11-1799,

Chấm dứt chế độ Đốc chính. Nền độc tài quân sự được thiết lập ở Pháp.

Năm 1804,

Na-pô-lê-ông lên ngôi Hoàng đế, thành lập đế chế thứ nhất.

Năm 1812,

Na-pô-lê-ông bị thua trận ở Nga.

Năm 1815,

Năm 1815, chế độ quân chủ Pháp được phục hồi.

* Nói: thời kì chuyên chính của Gia-cô-banh là đỉnh cao của cách mạng tư sản Pháp vì:

- Tháng 6-1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố Pháp là nước cộng hòa, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng giai cấp bị bãi bỏ.

- Phái Giacôbanh đã quan tâm giải quyết vấn đề ruộng đất đòi hỏi cơ bản của nông dân.

- 8/1793, Quốc hội thống qua sắc lệnh “Tổng động viên toàn quốc” để huy động sức mạnh của nhân dân trong cả nước chống “thù trong giặc ngoài” ban hành luật giá tối đa với lương thực đển hạn chế nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành mức lương tối đa của công nhân.

- Nhờ các chính sách của mình, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nổi loạn, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Hoàn thành các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. Cách mạng đạt đến đỉnh cao.

Loigiaihay.com

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Hãy nêu ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII

    Giải bài tập 3 trang 158 SGK Lịch sử 10. Hãy nêu ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Cách mạng tư sản Pháp nổ ra trong hoàn cảnh nào?

    Giải bài tập 1 trang 158 SGK Lịch sử 10. Cách mạng tư sản Pháp nổ ra trong hoàn cảnh nào?

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Hãy cho biết tình hình nước Pháp sau cuộc đảo chính ngày 27-7-1794.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 158 SGK Lịch sử 10. Hãy cho biết tình hình nước Pháp sau cuộc đảo chính ngày 27-7-1794.

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Chính quyền Giacôbanh đã thực hiện những biện pháp gì trong cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 157 SGK Lịch sử 10

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Phái Gia-cô-banh lên nắm chính quyền trong hoàn cảnh nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 156 SGK Lịch sử 10

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

    Giải bài tập 1 trang 100 SGK Lịch sử 10. Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Thống kê các triều đại trong lịch sử dân tộc từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX.

    Giải bài tập 1 trang 136 SGK Lịch sử 10

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Trình bày nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

    Giải bài tập 3 trang 100 SGK Lịch sử 10

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Những điểm giống và khác nhau trong đời sống kinh tế, văn hoá, tín ngưỡng của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, cư dân Lâm Ấp - Cham-pa và cư dân Phù Nam là gì ?

    Giải bài tập 4 trang 79 SGK Lịch sử 10

Cu-ba - hòn đảo anh hùng

Mục 1

1. Hoàn cảnh lịch sử:

Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

Vị trí địa lý của đất nước Cu-ba

- Với sự giúp đỡ của Mĩ, tháng 3-1952, Tướng Ba-ti-xta làm đảo chính, thiết lập chế độ độc tài quân sự ở Cu-ba.

- Chính quyền Ba-ti-xta đã xoá bỏ bản Hiến pháp tiến bộ, cấm các đảng phái chính trị hoạt động và bắt giam hàng chục vạn người yêu nước.

=> Không cam chịu chế độ độc tài tàn bạo, các tầng lớp nhân dân Cu-ba đã bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền.

Mục 2

2. Phong trào đấu tranh:

- Nhân dân Cu-ba tiến hành đấu tranh vũ trang giành chính quyền, mở đầu là cuộc tấn công pháo đài Môn-ca-đa ngày 26-7-1953 do Phi-đen Cát-xtơ-rô chỉ huy=> thất bại.

- Từ năm 1958, các binh đoàn cách mạng do Phi-đen Cát-xtơ- rô chỉ huy liên tiếp mở các cuộc tiến công.

- Ngày 1- 1- 1959, chế độ độc tài Ba-ti-xta bị lật đổ.

Mục 3

3. Cu-ba xây dựng và phát triển đất nước

- Cách mạng thắng lợi, chính phủ cách mạng lâm thời Cu-ba tiến hành cải cách dân chủ triệt để: cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản nước ngoài, xây dựng chính quyền cách mạng các cấp,…

- Tháng 4 - 1961, quân dân Cu-ba tiêu diệt đội quân đánh thuê của Mĩ tại bãi biển Hi-rôn, Tổng thống Phi-đen tuyên bố Cu-ba tiến lên chủ nghĩa xã hội.

- Nhân dân Cu-ba đạt được nhiều thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: xây dựng nền công nghiệp với hệ thống cơ cấu các ngành hợp lí; nông nghiệp đa dạng, giáo dục, y tế, văn hóa phát triển.

Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

ND chính

Quá trình đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước của Cu-ba - hòn đảo anh hùng.

Loigiaihay.com

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Lý thuyết các nước Mĩ-Latinh

    Lý thuyết các nước Mĩ-Latinh

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Xác định trên bản đồ châu Mĩ vị trí các nước Cu-ba, Chi-lê, Ni-ca-ra-goa và nêu lên các sự kiện đấu tranh ở ba nước này

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 31 SGK Lịch sử 9

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Vì sao nói cuộc tấn công pháo đài Môn-ca-đa (26 - 7 -1953) đã mở ra một giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh của nhân dân Cu-ba?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 32 SGK Lịch sử 9

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Hãy trình bày hiểu biết của em về mối quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa lãnh tụ Phi-đen Cát-xtơ-rô, nhân dân Cu-ba với Đảng, Chính phủ và nhân dân ta.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 32 SGK Lịch sử 9

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Em hãy nêu những nét nổi bật của tình hình Mĩ La-tinh từ sau năm 1945

    Giải bài tập trang 32 SGK Lịch sử 9

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và "Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 142 SGK Lịch sử 9

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Vì sao thực dân Pháp và phát xít Nhật thỏa hiệp với nhau để cùng thống trị Đông Dương?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 82 SGK Lịch sử 9

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941)

    Tóm tắt mục I. Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941)

  • Lập niên biểu về các diễn biến chính của cách mạng Cuba

    Phong trào “Đồng khởi" (1959 - 1960) nổ ra trong hoàn cảnh lịch sử nào ? Diễn biến, kết quả và ý nghĩa của nó?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 135 SGK Lịch sử 9

Lập niên biểu về Cách mạng tư sản Anh và Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 1: Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên
Thời gianSư kiện, diễn biến chínhKết quả
1-12-1773Nhân dân cảng Bô-xton tấn công 4 tàu chở chè AnhTạo điều kiện cho nền kinh tế Mĩ phát triển
5-9 đến 26-10-1774Đại hội Phi-la-đen-phi-aTạo điều kiện cho nền kinh tế Mĩ phát triển
4-1775Chiến tranh bùng nổ do G.Oa-sinh-tơn chỉ huyMột nước cộng hòa ra đời với hiến pháp 1787
4-7-1776Tuyên ngôn độc lập ra đời
17-10-1777Chiến thắng Xa-ra-tô-ga

(Nguồn: Bài 1 trang 9 sgk Lịch sử 8:)

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN DƯƠNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954

I. Quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở Dương Hòa (1930 - 8/1945)

Với vị thế là địa bàn chiến lược quan trọng, điểm tiếp giáp với thành phố Huế - thủ phủ xứ Trung Kỳ bảo hộ, nên chính sách đô hộ của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Dương Hòa[1] rất hà khắc. Bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã khá hoàn chỉnh. Đứng đầu huyện là Tri huyện. Ở tổng có các Chánh- Phó tổng. Dưới xã, ấp là bọn lý, hương và địa chủ cường hào… chiếm đoạt công điền, công thổ, tham nhũng công quỹ, ức hiếp nông dân. Nhân dân Dương Hòa không có quyền tự do dân chủ nào.

Không thể cam chịu cảnh cùng cực, một số thanh niên có chí hướng ở Dương Hòa đã bắt đầu đi tìm hiểu thời cuộc qua sách báo, qua các cuộc tiếp xúc với những nhà yêu nước tại Huế.

Cuối năm 1929, nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hóa để chuyển sang Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập Chi bộ đảng Đông Dương Cộng sản liên đoàn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc tuyên truyền giác ngộ một số thanh niên yêu nước ở Dương Hòa đi theo con đường cách mạng mới.

Ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở Thừa Thiên Huế, tháng 4/1930, tại Bến Ngự (Huế), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh được tiến hành. Hội nghị tuyên bố hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Đồng chí Lê Bá Dị được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời, trực tiếp chỉ đạo 3 huyện phía Nam, trong đó có Hương Thủy.

Sau ngày 01/5/1930, các đồng chí đảng viên chủ chốt trực tiếp đi vào nông thôn, miền núi vận động nông dân, tập hợp họ vào tổ chức nông hội, đấu tranh chống bọn cường hào, ác bá.

Ngày 18/6/1931, nhân kỉ niệm ngày Gia Long lên ngôi, nhiều truyền đơn được rải khắp Dương Hòa để vạch mặt bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nhân dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi quyền sống.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tháng 10/1939, địch thực hiện cuộc khủng bố trắng ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên ở Hương Thủy đều bị bắt. Hệ thống cơ sở bị phá vỡ, phong trào cách mạng ở Hương Thủy bị tổn thất nặng nề, còn lại một vài đồng chí và cơ sở phải rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo duy trì những hoạt động của Đảng sau này.

Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vượt ngục trở về triệu tập Hội nghị cán bộ đảng tại Quảng Điền, triển khai Nghị quyết Trung ương VIII. Hội nghị quyết định củng cố các tổ chức đảng để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.

Ngày 23/5/1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị ở Đầm Cầu Hai (Phú Lộc), chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử các đồng chí Lê Minh, Phạm Quang Thuyết, Phan Bạch Vân về chỉ đạo phong trào ở Hương Thủy.

Được sự tiếp sức của tỉnh, các tổ chức đảng ở các huyện khẩn trương triển khai Nghị quyết Hội nghị Đầm Cầu Hai, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến là tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Tháng 6/1945, Mặt trận Việt Minh huyện Hương Trà được thành lập lấy tên là Việt Minh Bình Sơn. Ban lãnh đạo Việt Minh Bình Sơn gồm các đồng chí: Đặng Cháu, Hoàng Liên, Trần Danh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Thị Út do Lâm Mộng Quang làm chủ nhiệm[2].

Đầu tháng 8/1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương, nhân dân xã Dương Hòa cùng với các địa phương trong huyện Hương Thủy đẩy mạnh việc quyên góp thóc, gạo, tiền vào ngân quỹ của Việt Minh để trang cấp cho việc huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu, rèn vũ khí, mua vải may cờ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Trước khí thế của quần chúng và thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt của phát xít Nhật đang đến gần, ngày 10/8/1945, Tỉnh ủy họp phiên mở rộng quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Sau Hội nghị, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp về chỉ đạo ở các huyện.

Ngày 17/8/945, Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà) họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện và khu vực, đề ra kế hoạch khởi nghĩa ở các làng, tổng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà), ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23/8 nhân dân Hương Thọ đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Tại Dương Hòa đồng chí Ngô Đức Vui đã tập hợp các đoàn biểu tình từ các thôn về tại nhà thờ họ Phan tổ chức mít tinh tuyên bố chính quyền vào tay nhân dân. Bọn hương lý lo sợ đem ấn triện nộp cho chính quyền cách mạng của nhân dân[3].

Ngày 30/8, hàng nghìn nhân dân Dương Hòa đã về Huế cùng nhân dân toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn trong buổi lễ thoái vị của Bảo Đại và nghe đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xáo bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 02/9/1945, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng nhân dân cả nước chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945), nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) được đổi đời từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người chủ xã hội. Cách mạng tháng Tám chứng minh truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân Dương Hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã tạo ra bước ngoặt mới để xây dựng và phát triển Dương Hòa ngày càng khởi sắc sau này.

II. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Dương Hòa (8/1945 - 12/1946)

Sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng và giữ vững chính quyền là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp. Với khó khăn về kinh tế tài chính, văn hóa, xã hội và ngoại xâm, tất cả đang đe dọa một cách nghiêm trọng vận mệnh dân tộc nói chung và Dương Hòa nói riêng. Nhưng do vừa thoát khỏi thân phận một người dân mất nước, nô lệ, nhân dân xã Dương Hòa ý thức sâu sắc giá trị của độc lập, tự do và nguyện đem hết khả năng trách nhiệm của mình để bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được.

1. Về chính trị.

Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 22/11/1945 Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phấn khởi, tràn đầy tin tưởng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên)[4] cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia bầu cử Quốc hội chung cả nước (6/1/1946). Một không khí sinh hoạt chính trị sôi động đầy khắp thôn xóm. Trước ngày bầu cử các đoàn thể như Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc ngày đêm hăng hái vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử. Lực lượng tự vệ ngày đêm thường xuyên canh gác sẵn sàng đập tan mọi âm ưu phá hoại của kẻ địch, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của xã đã phổ biến quy định bầu cử, đồng thời nhấn mạnh cho nhân dân hiểu rõ tính chất dân chủ của việc phổ thông đầu phiếu. Khẩu hiệu “hoan nghênh ngày bầu cử thống nhất” hòa trong tiếng reo hò của đội cổ động đã làm tăng thêm không khí sôi động của ngày bầu cử. Nhiều loại thơ ca hò vè được nhân dân truyền miệng nhắc nhở nhau bầu cho các đại biểu do Việt Minh đưa ra ứng cử, như:

“Thích Mật Thể, kể cả Hoàng Anh

Cùng Trần Thanh Chữ bạn lành của ta…”

Hòm phiếu được đặt ở đình làng các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc. Để tranh giành với ta, bọn Quốc dân đảng đã đưa ra một số ứng cử viên và chúng đã dùng mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc hòng lừa bịp nhân dân, chúng tìm cách nói xấu các đại biểu Việt Minh. Nhưng kết quả cuộc bầu cử đã thắng lợi, hầu hết các ứng cử viên do Việt Minh giới thiệu là Hoàng Anh và Thích Mật Thể đã trúng cử tỉ lệ cao, có người đạt trên 90% số phiếu.

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất to lớn, cho thấy nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đặt hết tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Chính phủ cách mạng.

Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện Sắc lệnh 63/SL về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân để cử ra bộ máy chính quyền quản lý xã, thôn. Tại kì họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân xã Hương Nguyên đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch[5].

Để tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng các cấp và đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của cách mạng địa phương, công tác xây dựng Đảng rất được Huyện ủy Hương Trà chú trọng. Tháng 2/1946, tại thôn Hải Cát, đồng chí Đặng Cháu - Bí thư Huyện ủy Hương Trà, đã chủ trì lễ kết nạp 2 quần chúng ưu tú là đồng chí Trần Hữu Thí (quê ở Kim Long) và Đặng Hiền (quê ở Hải Cát)) vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó không lâu kết nạp thêm đồng chí Hồ Văn Hiến (quê ở Đình Môn) hình thành nên Chi bộ ghép đầu tiên, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng. Chi bộ do đồng chí Trần Hữu Thí làm Bí thư.

Ngay sau khi ra đời, Chi bộ ghép phụ trách 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng đã tích cực hoạt động, chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng Đảng viên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đến các địa bàn thôn, xóm. Tại Hương Thọ, được sự quan tâm của Chi bộ, các quần chúng ưu tú như Nguyễn Công Khanh (La Khê Bải), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thương (La Khê Trẹm) đã được kết nạp vào Đảng, trên cơ sở đó Huyện ủy Hương Trà cử các đồng chí Hoàng Liên, Nguyễn Vật, Hồ Văn Hiến về xây dựng Tổ đảng Dương Hòa (Hương Nguyên) do đồng chí Hồ Văn Hiến trực tiếp chỉ đạo[6].

Sự kiện Chi bộ đảng Cộng sản ghép của 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty , Hương Phụng và Tổ đảng Dương Hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các xã. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, tổ đảng nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.

2. Về kinh tế.

Song song với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương, Ủy ban Nhân dân lâm thời và sau đó là Ủy ban Hành chính đã tiến hành phân cấp lại ruộng đất chia cho dân nghèo. Tất cả nam nữ công dân từ 18 tuổi trở lên đều được cấp phát ruộng đất để cày cấy, sản xuất.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, chính quyền địa phương đã tiến hành giảm 25% tô, thuế, giảm nợ cho nông dân, xóa bỏ thuế thân và mọi thứ thuế bất hợp lý khác.

Việc tịch thu ruộng đất của cường hào, của những kẻ có nợ máu, việc cấp phát ruộng đất, giảm tô, tức và các thứ thuế bất hợp lý đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất.

Trong tình thế khó khăn chung của đất nước, Chính quyền Cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đề ra một số biện pháp cấp bách như ra lệnh cấm dùng gạo vào những công việc không cần thiết như nấu rượu, làm bánh và kêu gọi nhân dân giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức “hũ gạo đồng tâm” để giải quyết nạn đói. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất cũng rất được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu gọi “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” của Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Chính quyền và Chi bộ đảng địa phương, nhân dân Dương Hòa đã tích cực canh tác, từ sáng sớm đã có những đoàn người tham gia lao động sản xuất; đẩy mạnh hơn nữa việc khai hoang để mở rộng sản xuất. Nhờ vậy, đã tạo dựng được những tiền đề vững chắc để giải quyết tận gốc nạn đói.

Với quyết tâm của chính quyền cách mạng và sự nỗ lực của nhân dân, nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định và góp phần vào việc thực hiện khẩu hiệu “Diệt giặc đói” của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.

  1. Phong trào xây dựng Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng.

Sau Cách mạng tháng Tám, tài chính Nhà nước hầu như trống rỗng. Để giải quyết khó khăn trên, ngày 04/5/1946 Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh số 4 - Sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng” trong cả nước kể từ ngày 12/9/1946 - 24/9/1946 nhằm động viên nhân dân tự nguyện đóng góp phần mình vào việc xây dựng đất nước và giữ vững nền độc lập.

Hưởng ứng phong trào gây Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng ở Dương Hòa (Hương Nguyên), cán bộ cách mạng đã tuyên truyền và giải thích sâu rộng trong quần chúng nhân dân về ý nghĩa chính trị to lớn của việc làm nói trên. Đây không chỉ là việc quyên góp đơn thuần mang tính chất kinh tế mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Hiểu được ý nghĩa của hoạt động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) người ít kẻ nhiều đã lần lượt đến đình làng tự giác đóng góp vàng, bạc; có nhiều người còn đem cả vật kỷ niệm ngày cưới như đôi hoa tai vàng, nhẫn… đóng góp cho cách mạng không ghi tên tuổi. Tính chung, trong đợt vận động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng toàn thể nhân dân Hương Thọ đã góp hơn 15 lượng vàng, 200kg đồng để đóng góp vào công quỹ Nhà nước[7].

Phong trào Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhiều người dân đã tham gia đóng góp với các mức độ khác nhau. Điều này đã thể hiện sự giác ngộ cách mạng và tinh thần yêu quê hương, đất nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên).

  1. Về văn hóa giáo dục.

Do hậu quả của chính sách ngu dân mà chế độ thực dân, phong kiến để lại, hơn 90% nhân dân Dương Hòa bị mù chữ. Vì vậy, để nâng cao dân trí, góp phần kiến quốc, công cuộc xóa nạn mù chữ được xem như là một yêu cầu cần kíp đặt ra cho chính quyền cách mạng.

Ngày 06/5/1946, Hội đồng Chính phủ đã họp và quyết định phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong cả nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, phong trào học chữ quốc ngữ thực sự là một phong trào rộng rãi của quần chúng mang tính chất tự giác cao. Các buổi học thường được tổ chức vào ban đêm tại các đình, các nhà thờ các thôn ở Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm... Nhân dân lao động trẻ, già, trai, gái không phân biệt lứa tuổi đều tích cực tham gia học tập. Mỗi thôn có từ 3 đến 4 lớp. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít, nên có người vừa là thầy vừa là trò[8]. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dụng cụ học tập như: giấy, bút, dầu đèn... song tiếng ê, a đánh vần vào mỗi buổi tối vẫn vang lên từ đầu đến cuối làng.

Trong các buổi lao động gia đình hoặc hội họp tập thể, hình thức đố bài để giúp nhau ôn lại bài vở đã học đã diễn ra sôi nổi; nhiều bài thơ ca, hò vè đã được sáng tác để kịp thời vận động nhân dân học tập; tại những điểm giao thông có nhiều người qua lại, chính quyền địa phương đã tổ chức giăng dây đố chữ hoặc tổ chức thi hàng tuần, kỳ, tháng hoặc 3, 4 tháng một lần để kiểm tra và kịp thời có những biện pháp thích hợp khuyến khích nhân dân chú trọng hơn nữa đến công tác xóa nạn mù chữ. Từ trong phong trào “diệt giặc dốt”, nhiều cán bộ, đảng viên trở thành những giáo viên giỏi và sau này có những người trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng.

Thắng lợi của phong trào xóa nạn mù chữ không đơn thuần có giá trị về mặt văn hóa - xã hội, mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc.

Nhờ đó mà nhân dân lĩnh hội được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách tương đối dễ dàng, tạo thêm khả năng để nhân dân tham gia đóng góp phần mình vào công cuộc kháng chiến.

5. Về xây dựng lực lượng vũ trang và hỗ trợ phong trào Nam tiến.

  1. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ.

Hầu hết thanh niên tích cực ở Dương Hòa (Hương Nguyên) sau Cách mạng tháng Tám được đưa vào các đội tự vệ. Mỗi thôn có một tiểu đội, vũ khí chủ yếu là dao găm, mã tấu, nhưng tinh thần luyện tập rất hăng hái. Nhiệm vụ của các tiểu đội tự vệ là cảnh giác, tuần tra cho thôn xóm và bảo vệ cơ quan chính quyền xã. Tại Dương Hòa, đội tự vệ thôn có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, phụ nữ như: Mai Văn Trừng, Lê Phán, Lê Thạc, Võ Thanh Duy, Phan Mông, Bùi Ngọc Tịnh, Võ Thị Mòn, Phan Bá Cừ, Phan Sinh, Phan Thị Hàm, Phan Tự… Do đồng chí Mai Văn Trừng làm đội trưởng (1949 - 1950)[9].

Năm 1946, chính quyền nhân dân được thành lập và song song với việc tổ chức, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ được phát triển hơn. Đội trưởng tự vệ lúc này là đồng chí Mai Văn Trừng.

Không khí luyện tập rất hăng hái, sôi nổi hơn trước, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang không chỉ đóng khung trong các thôn xóm mà được mở rộng ra địa bàn xã.

  1. Phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ba tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (23/9/1945), thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta. Tiếng súng xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp đã gây nên một làn sóng căm phẫn dữ dội trong toàn thể quốc dân đồng bào cả nước. Nhân dân Nam bộ ngay từ đầu đã nhất tề đứng dậy cầm súng đánh giặc, mở đầu một trang sử vô cùng oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ở Dương Hòa (Hương Nguyên), phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Thanh niên Dương Hòa (Hương Nguyên) đã nô nức lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người đã gia nhập giải phóng quân, khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam bộ kháng chiến”, “Thà chết vinh còn hơn sống làm nô lệ” được giương cao khắp thôn xóm, Ủy ban ủng hộ Nam bộ kháng chiến được thành lập, động viên nhân dân ủng hộ nhân tài vật lực cho miền Nam như lúa, gạo, chăn màn, quần áo, tiền bạc để mua sắm vũ khí.

Cùng với cả nước, phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến ở Dương Hòa (Hương Nguyên) thực sự trở thành cuộc vận động chính trị vô cùng rộng lớn kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Đã có những đóng góp vật chất, tinh thần xứng đáng cho kháng chiến chống quân xâm lược.

Thời kỳ từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là thời kỳ mà đất nước nói chung và Dương Hòa (Hương Nguyên) nói riêng gặp vô vàn khó khăn như trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng với muôn vàn khó khăn đã đặt đất nước, quê hương trước thử thách nghiêm trọng. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cấp trên và các đảng viên lúc đó như Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến người Đình Môn), Nguyễn Công Khanh (Hải Cát) nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chính quyền cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã lãnh đạo nhân dân giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, chuẩn bị tiềm lực để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài và hết sức gian khổ.

III. Dương Hòa (Hương Nguyên)[10] tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19/12/1946 - 20/7/1954)

Đúng như Đảng đã dự đoán, thực dân Pháp tiếp tục chính sách “việc đã rồi” hòng đặt lại ách thống trị của chúng lên đất nước ta. Sau nhiều vụ khiêu khích của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, chiến tranh bắt đầu lan tỏa khắp đất nước. Thời kỳ tạm hòa hoãn đã chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy kháng chiến, kiên quyết giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc.

Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch thay mặt Đảng và Chính phủ, kêu gọi đồng bào cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11].

Cùng cả nước, cả tỉnh và thành phố Huế nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch.

1. Dương Hòa (Hương Nguyên) từ kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) đến khi mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ (5/2/1947).

Mặc dù đã kí với Chính phủ các Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ tái xâm chiếm nước ta. Chúng sẵn sàng hành động với sự hậu thuẫn của các nước đồng minh để chiếm lại nước ta bằng mọi giá.

Tại Thừa Thiên Huế, trước những hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, đầu tháng 12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy họp đã rà soát kiểm điểm việc chuẩn bị các mặt cho công cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh.

Ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm hôm đó, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên thông qua kế hoạch tác chiến của Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến Liên khu. Tỉnh ủy chủ trương dùng lực lượng vũ trang kết hợp sức mạnh của nhân dân tiến công, bao vây và tiêu diệt quân Pháp đóng ở Huế trước khi lực lượng tăng viện của địch đến.

Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, tất cả các xã trong toàn huyện Hương Thủy đã sôi sục trong bão lửa chiến tranh, quyết đem tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương.

Trong 50 ngày đêm liền, quân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã góp phần cùng quân dân Hương Thủy tấn công liên tục vào những các vị trí của địch có pháo binh yểm trợ lưu động trên trận địa Hương Thủy từ Quảng Tế đến Ngự Bình. Ban ngày từ các vị trí chúng tấn công ta bằng thiết giáp và bộ binh. Ta dựa vào trận địa giao thông mà chiến đấu bằng nhiều hình thức phù hợp như bắn tỉa, bắn đón bằng súng trường. Nhiều lúc đánh giáp lá cà, đánh cháy xe thiết giáp của chúng bằng bom xăng.

Các cuộc tấn công của ta diễn ra bằng những vũ khí thô sơ, có khi còn dùng cả rơm rạ và ớt, dùng lửa và khói đánh vào các tòa nhà chúng dùng làm công sự để chặn ta tấn công. Hầu hết các gia đình trong xã đều có đóng góp ít nhất là một gánh rơm, vài ba lon ớt… Khoảng 7 - 8 giờ tối, tất cả những thứ đó được đưa xuống đò chuyển về Huế tiếp viện cho lực lượng bộ đội đánh địch[12].

Tại chùa Khoai (nơi xưa kia đặt Bộ Chỉ huy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo khởi nghĩa Chày Vôi) chị Tú - cán bộ phụ nữ huyện, báo cáo trước nhân dân trong xã về tình hình diễn biến chiến trận và kêu gọi nhân dân “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hưởng ứng lời kêu gọi của chị

Tú, đồng chí Thân Trọng Một và đồng chí Thạnh ở Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tình nguyện tham gia đội quân này, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Hôm sau, hai đồng chí vác bộ 10kg bộc phá vào nhà Mác-bớp đánh địch đang cố thủ ở đây. Đồng chí Thạnh hy sinh tại chỗ, đồng chí Thân Trọng Một bị thương[13].

Khi mặt trận tiếp tục mở rộng, địch liên tiếp càn quét. Do chủ quan và chưa nắm được tình hình, nên lúc đầu các cơ sở của ta bị vỡ, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể phải rút lui, thậm chí các đồng chí cán bộ trong Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến phải phân tán mỗi người một nơi. Sau khi địch rút lui, lực lượng của ta lại tập hợp, củng cố để chuẩn bị đối phó với kế hoạch mới của địch

Nhìn chung, trong khoảng thời gian này, lúc đầu ta có lúng túng, bị động nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện, quân và dân Dương Hòa (Hương Nguyên) vẫn thực hiện cuộc rút lui về tuyến sau an toàn, xây dựng căn cứ địa đảm bảo lực lượng để bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) từ tháng 2/1947 đến cuối năm 1950.

  1. Âm mưu của thực dân Pháp

Sau khi chiếm được thành phố và các đầu mối giao thông quan trọng, thực dân Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng đồng bằng và đánh sâu vào căn cứ của ta ở rừng núi, đặc biệt là Dương Hòa, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang, phá hoại kho tàng của ta. Đi đôi với chiến thuật càn quét lớn, giặc Pháp dùng chiến thuật cứ điểm nhỏ để kìm chân các hoạt động của ta ở đồng bằng, phong tỏa ta ở miền núi. Địch đánh tới đâu, chúng xây dựng, đóng đồn tới đó để thực hiện chiến thuật “Vết dầu loang”.

Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), thực dân Pháp đã hỗ trợ cho Linh mục Nguyễn Ngọc xây dựng Giáo xứ Buồng Tằm. Nhiệm vụ chủ yếu của các đồn, lô cốt là bảo vệ an ninh cho địch, khủng bố nhân dân, xây dựng bộ máy tề - ngụy phản động ở địa phương, lùng bắt cán bộ và phá hoại phong trào.

  1. Chủ trương kháng chiến của ta:

Không để cho thực dân Pháp thực hiện được những ý đồ thâm độc của chúng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm đứng lên đấu tranh phá tan các âm mưu của địch.

Một tháng rưỡi sau khi vỡ mặt trận, Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế mở rộng đã họp từ ngày 25 đến 27/3/1947 tại thôn Nam Dương (huyện Quảng Điền) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi mặt trận mở rộng. Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị chủ trương:

+ Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, không để cho giặc ăn ngon, ngủ yên, phá chính sách “bình định” của giặc, cương quyết phá tề, trừ gian, làm cho đồng bào tin tưởng Đảng vẫn còn, bộ đội vẫn còn và nhân dân tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

+ Tổ chức tăng gia sản xuất, cất giấu của cải, lúa gạo, tổ chức cảnh giác để lúa gạo không rơi vào tay giặc.

+ Xây dựng lại cơ sở, tổ chức đưa cán bộ về lại địa phương cũ để hoạt động, gây dựng lại phong trào, cơ sở, nắm lấy quần chúng để kháng chiến (nhất là 3 huyện phía Nam Thừa Thiên), phải chấn chỉnh lại quân đội, tổ chức lại hệ thống chỉ huy và cơ sở du kích, chỉnh đốn lại Ủy ban, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng[14].

Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp ở Nam Dương (3/1947), Huyện ủy Hương Trà đã họp quán triệt chủ trương của cấp trên và đề ra những biện pháp cấp thiết giữ vững chính quyền cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh và Huyện ủy Hương Trà, cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã từng bước khôi phục, củng cố phong trào cách mạng, góp phần với huyện, tỉnh làm nên những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận: chính trị, kinh tế và quân sự trong giai đoạn 1947 - 1950.

c. Nhân dân Dương Hòa chiến đấu chống lại âm mưu của thực dân Pháp, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc (từ ngày 5/2/1947 đến cuối năm 1950).

- Phong trào đấu tranh của nhân dân Dương Hòa từ ngày 5/2/1947 đến giữa năm 1948.

Sau khi Mặt trận Huế vỡ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lan rộng khắp toàn tỉnh. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ sở đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo mình đối với phong trào cách mạng của quần chúng. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết nói trên, từ năm 1947, việc phát triển đảng viên, xây dựng các hạt nhân nòng cốt để trực tiếp lãnh đạo nhân dân địa phương tiếp thu và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng rất được các Chi bộ cơ sở chú trọng. Tại Hương Thọ, với những hoạt động tích cực của Chi bộ đảng, số lượng đảng viên của xã cuối năm 1947 đã tăng lên 18 người, gồm các đồng chí: Hồ Văn Hiến (tức Xạ Hiến, Đình Môn), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thượng (La Khê Trẹm), Nguyễn Công Khanh (La Khê Bãi), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Nguyễn Bạo (Hải Cát Hạ), Trần Quang Bỉnh (Hải Cát Thượng), Đặng Văn Tuân (Hải Cát Thượng), Lê Văn Kế (La Khê Trạm), Mai Văn Trọng (Hải Cát Thượng), Nguyễn Văn Nghệ (La Khê Trẹm), Nguyễn Bách (La Khê Trẹm), Nguyễn Thị Châu (Kim Ngọc), Mai Văn Trừng (Đình Môn), Phan Bá Cừ (Dương Hòa), Mai Văn Sử (Đình Môn), Nguyễn Dương (Kim Ngọc). Về sau, các đồng chí trên mất liên lạc với tổ chức và không thể tiếp tục hoạt động.

Nhờ sự phát triển mạnh của lực lượng đảng viên đã góp phần quan trọng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Chi bộ Hương Thọ và Tổ đảng Dương Hòa trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch trên mọi mặt, dưới mọi hình thức để từng bước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.

Sau khi xây dựng hệ thống đồn bốt tại địa phương, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng và củng cố lại bộ máy tề - ngụy, nhằm tạo lập chính quyền tay sai phục vụ cho những chính sách xâm lược của chúng. Trước tình hình đó, ta chủ trương biến hội tề của địch thành lực lượng hoạt động phục vụ cho cách mạng, bằng cách đưa một số người của ta cài vào hoạt động trong các tổ chức của địch để có điều kiện hoạt động công khai và kiên quyết trừng trị những tên phản cách mạng phục vụ đắc lực cho thực dân Pháp. Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), mặc dù địch đã thành lập bộ máy hương lí làm tay sai cho chúng nhưng bộ máy này đã bị vô hiệu hóa vì ta đã cài người của mình vào đây.

Thực hiện chủ trương không để địch tăng cường các hoạt động quân sự nhằm chống phá lực lượng cách mạng, ta đã tập trung lực lượng dân quân tiến hành bao vây liên tục không cho địch tiếp xúc với bên ngoài. Kết hợp với bao vây, ta tiến hành binh vận, kêu gọi những binh lính lầm đường lạc lối, thức tỉnh trở về với cách mạng.

Đầu năm 1947, Đội hành động (tổ chức của An ninh Trinh sát vũ trang) về đóng quân tại Đình Môn (khu vực lăng Gia Long). Để giữ vai trò liên lạc giữa đồng chí lãnh đạo Ty Công an ở Dương Hòa với tổ Minh Khai (các cơ sở, các điệp báo viên cắm trong thành phố), các đội viên đội công an hành động qua cơ sở ở Dương Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo đường dây liên lạc giữa Đội Công an Hành động ở chiến khu Dương Hòa và thành phố.

Tháng 3/1947 tại 2 thôn Dương Hòa và Đình Môn, dựa vào bọn phản động và Linh mục Nguyễn Ngọc chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt 13 cán bộ chủ chốt của xã đem về đồn Nam Giao để khai thác dụ dỗ nhưng không thành. Chính vì vậy, nhiệm vụ trừ gian, diệt tề tại đây được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng kháng chiến và củng cố niềm tin cho nhân dân[15]. Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, tháng 7/1947, đồng chí Thân Trọng Một, Phạm Công Lan phối hợp với đồng chí Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến), Chủ tịch xã Hương Nhuyên chỉ huy quyết tử quân, du kích đánh và giải tán bọn phản động tại đây. Linh mục Ngọc phải bỏ giáo xứ chạy về nhà thờ Thần Phù.

Sau chiến thắng này, ta đã làm chủ hoàn toàn con đường liên lạc Bắc - Nam đi qua Dương Hòa, mở ra vành đai bảo vệ từ Le Le lên đến điện Hòn Chén, tạo tiền đề to lớn để năm sau xây dựng chiến khu Dương Hòa[16]. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Dương Hòa từ đây bắt đầu có những bước phát triển mới. Chuyển từ thế phòng ngự sang chiến tranh du kích diệt tề, trừ gian. Từ đó đã tạo dựng được những tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân quân du kích ở Dương Hòa.

Do vậy, vào đầu năm 1948, mặc dù thực dân Pháp thực hiện kế hoạch bình định vùng đồng bằng và bao vây chiến khu miền núi, tiến hành xây dựng đồn bốt, làm chỗ dựa về quân sự cho việc xây dựng chính quyền tề, ngụy của chúng nhưng vẫn không đàn áp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Du kích các xã đã ra sức phối hợp với bộ đội chính quy (Trung đoàn 101) đánh địch càn quét, hỗ trợ nhân dân làm chủ thôn xóm. Hoạt động vũ trang được đẩy mạnh khắp toàn huyện.

- Sự ra đời của chiến khu Dương Hòa và các hoạt động đấu tranh cách mạng bảo vệ chiến khu của nhân dân Dương Hòa (từ giữa năm 1948 đến năm 1949).

Vấn đề xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hàng đầu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Nhận thức rõ về vấn đề trên, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, việc chọn địa bàn để xây dựng thành điểm đứng chân cho các ban ngành lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và bảo toàn lực lượng cách mạng rất được Tỉnh ủy chú trọng thực hiện. Trên cơ sở đó, từ năm 1947 các chiến khu cách mạng đã lần lượt ra đời: chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền), chiến khu Trò (Hương Trà), Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc)... Tại Hương Thủy chiến khu động Mỏ Tàu (ở đất xóm Hộ, Dương Hòa) đã được thành lập vào năm 1947, đặt tên là chiến khu Phương Hải để tưởng nhớ 2 đồng chí đã hy sinh: đồng chí Lê Trạc (Hải), Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách Huyện ủy Phú Vang và đồng chí Nguyễn Thượng Phương (Hương Thủy).

Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng ở các huyện phía Nam của tỉnh phát triển mạnh nhằm để đáp ứng yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, tháng 5/1948, Tỉnh ủy đã quyết định chuyển địa bàn từ chiến khu Hòa Mỹ vào vùng rừng núi phía Tây huyện Hương Thủy để xây dựng chiến khu Dương Hòa, lấy làng Dương Hòa làm trung tâm của chiến khu.

Việc lựa chọn Dương Hòa làm căn cứ đứng chân của lãnh đạo tỉnh không phải được quyết định một cách ngẫu nhiên, mà quyết định này được đưa ra trên cơ sở những phân tích về vị trí địa lí và thực tiễn hoạt động của các tổ chức cách mạng tại đây.

  • Về mặt vị trí địa lí, chiến khu Dương Hòa hội tụ nhiều yếu tố mà chiến khu Hòa Mỹ không thể có được.

Dương Hòa là vùng đất được bao bọc bởi 2 nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch, có núi non che chở ở phía Tây, phía Nam gần đô thị Huế (cách Huế 12km), cách trung tâm huyện lị Hương Thủy 11km theo đường chim bay, nằm trên tuyến đường nối liền 2 chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền) và Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc), tạo thế liên hoàn giữa các mặt trận.

Chiến khu bao gồm địa phận xã Hương Thọ (Hương Trà) và các vùng lân cận khu vực rừng núi của dãy Trường Sơn trùng điệp, tiếp giáp với thôn Lương Miêu. Ngoại vi chiến khu bao gồm Bình Điền, An Bằng, Hải Cát và một số thôn thuộc các xã Phú Sơn, Thủy Bằng (Hương Thủy). Do vậy, từ chiến khu Dương Hòa ta có nhiều thuận lợi để triển khai các hoạt động về các xã đồng bằng: Dương Hòa - Hương Thủy (từ Dương Hòa về Ấp 5, Thủy Phương), Dương Hòa - Hương Hồ (từ Dương Hòa qua đồi “Đất Mẹ” (Thủy Bằng), sau lưng điện Hòn Chén về Hương Hồ), Dương Hòa - Huế (Dương Hòa vượt qua sông đến Thủy Bằng về Huế), Dương Hòa - Liên khu 5 (Dương Hòa băng qua Khe Sòng, Khe Ván đi Nam Đông lên Liên khu 5).

Nhìn chung,“đặc điểm của chiến khu Dương Hòa là dễ thủ khó công. Tiếp tế lên về có nhiều đường, nhiều phía. Đánh địch cũng dễ vì chỉ cần vận động trong thời gian ngắn là có thể đến được nơi cần đến”[17] nên có nhiều ưu thế để cơ quan đầu não kháng chiến tỉnh chọn đây làm nơi đứng chân của mình để lãnh đạo kháng chiến.

  • Về mặt địa hình, Dương Hòa có nhiều điểm cao nếu ta làm chủ sẽ rất thuận lợi để nắm bắt kịp thời những mưu đồ và hoạt động của thực dân Pháp, Chính phủ bù nhìn Trung Kỳ, tạo điều kiện chỉ đạo sâu sát tình hình toàn tỉnh và thành phố Huế; nhiều khe, động, núi, sông ở Dương Hòa là những địa bàn lí tưởng để làm nơi trú chân của các cơ quan, ban, ngành lãnh đạo kháng chiến. Đến cuối tháng 6/1948, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh đã di chuyển vào Chiến khu Dương Hòa an toàn:
  • Ty Công an đặt cơ quan tại lăng Gia Long.
  • Cơ quan quân sự, cơ quan đầu não tỉnh đóng ở khe Ồ Ồ (một nhánh của khe Dài).

*Bệnh viện, cơ quan thông tin văn hóa, cơ quan Thành ủy Huế đóng ở Khe Cống, đồi 815.

  • Trung đoàn 101 thường trú quân ở thôn Lương Miêu, Đại đội trọng pháo đóng quân ở Bến Trẹ (Dương Hòa).
  • Xưởng quân giới đóng ở Khe Dài.
  • Cơ quan tòa án, Công an tỉnh đóng ở xóm Hạ và xóm Trung (Buồng Tằm, Dương Hòa).

Chiến khu Dương Hòa được thành lập một mặt vừa tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa tiếp nhận sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo kháng chiến của Tỉnh ủy, Huyện ủy, mặt khác cũng đặt ra cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chiến khu và phải tổ chức các hoạt động đảm bảo việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho chiến khu.

Trong những ngày đầu mới thành lập, Chiến khu Dương Hòa dựa vào sự che chở, tiếp tế của nhân dân các làng khắp Hương Thủy, Hương Trà cũng như thị xã Huế để duy trì hoạt động.

Hàng hóa trung chuyển từ đồng bằng lên Chiến khu Dương Hòa để chi viện cho các cơ quan cách mạng đều tập kết cạnh miếu Ngũ Hành, ở thôn Hạ (một thôn của Dương Hòa). Với vai trò, vị trí trọng yếu như vậy đối với chiến khu, khu vực này được xem như là chợ kháng chiến của ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược[18]. Hoạt động của chợ kháng chiến Dương Hòa thời kì này rất tấp nập. Gần như mọi thứ hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống cán bộ, nhân dân đều có ở đây. Ngay cả khi địch tiến hành ngăn chặn, cô lập Chiến khu Dương Hòa khốc liệt, chợ kháng chiến Dương Hòa vẫn tiếp tục duy trì hoạt động. Nhiều đoàn dân công từ Dương Hòa lên, về thành phố tiếp tế lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, bộ đội; nhiều con em Dương Hòa đã phải hi sinh vì bom đạn của địch hoặc bị bắt bớ tù đày trong quá trình vận chuyển các nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu, song vẫn một lòng trung thành với cách mạng; có nhiều chị; nhiều mẹ tháng tháng, ngày ngày nuôi giấu cán bộ, nuôi dưỡng thương binh, không một chút suy tính[19].