Lps trong chứng khoán là gì

Lps trong chứng khoán là gì


Như chúng ta đã biết Wyckoff là một trong ngũ thánh trong giới phân tích kỹ thuật. Cho dù phương pháp của ông đã được sáng tạo từ rất lâu nhưng cho đến bây giờ thì giá trị gần như không thay đổi. Nó vẫn đúng với các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán.

Trong bài viết ngày hôm nay, tôi xin giới thiệu với anh em 5 giai đoạn trong tích lũy trong phương pháp Wyckoff. Hy vọng anh em nó có thể giúp ích được cho anh em.

Lps trong chứng khoán là gì


Giai đoạn A - Khởi đầu

Lps trong chứng khoán là gì


Giai đoạn A đánh dấu sự dừng lại của xu hướng giảm trước đó. Cho đến thời điểm này, nguồn cung đã chiếm ưu thế. Điều này được thể hiện qua hành động Preliminary support (PS) và Selling Climax (SC) của thị trường.

>> Xem thêm các video về phương pháp Wyckoff/VSA/VPA/ Jesse Livermore tại kênh Youtube của Kakata:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLA1ynWIlMvIXnpkOFdgvoq0XzgRrnufe9

Những sự kiện này thường rất rõ ràng trên các biểu đồ giá, trong đó mở rộng lan rộng và khối lượng lớn mô tả việc chuyển một số lượng lớn cổ phần từ công chúng sang lợi ích chuyên nghiệp lớn. Một khi những áp lực bán mạnh này đã được giải tỏa, một đợt tăng giá tự nhiên (AR), bao gồm cả lực cầu của dòng tiền lớn cũng như lực chốt lời của lệnh short từ trước.

Một hành động test lần thứ hai - Secondary Test (ST) trong vùng SC sẽ cho thấy lực bán đã ít đi, nến về thanh khoản cũng dần thu hẹp lại, đáy của hành động test lần hai cũng dừng lại ở đáy Selling Climax.

Nếu ST xuống thấp hơn so với SC, chúng ta có thể dự đoán rằng giá còn giảm một chút nữa hoặc vùng sideways không xu hướng sẽ kéo dài hơn. Các dáy tạo bởi SC và ST cùng với đỉnh của AR tạo thành một vùng trading range (vùng biên trên và biên dưới khi giá đi ngang).

Đôi khi xu hướng giảm có thể kết thúc từ từ trong im lặng mà không có hành động giá và thanh khoản nào nổi bật. Tất cả các thanh giá và thanh khoản vẫn cứ bình thường, vẫn cứ đều đều.

Trong vùng giá tái tích lũy (xảy ra trong xu hướng tăng dài hạn), các điểm đánh dấu cho hành động PS, SC và ST không rõ ràng trong giai đoạn A như vùng tích lũy ở đáy. Thay vào đó, trong các trường hợp như vậy, giai đoạn A nhìn sẽ giống với giai đoạn A trong vùng phân phối hơn. Các pha B - E thường có thời gian ngắn hơn và biên độ nhỏ hơn, nhưng cũng tương tự như các pha trong vùng tích lũy ở đáy.

Lưu ý: có thể giai đoạn A (Phase A) khá quan trọng trong việc xác định giá đã kết thúc xu hướng giảm và tiến tới việc tích lũy đi ngang. Do đó, Selling Climax và Automatic Rally chính là đầu mối để phát hiện ra giai đoạn A.

Lps trong chứng khoán là gì


Giai đoạn B - Hành động

Trong phân tích của Wyckoff, giai đoạn B thể hiện "nguyên nhân" trong quy luật "nguyên nhân - kết quả" mà nền tảng Wyckoff đã đề cập. Mod @Nguyen Lam đã chia sẻ với anh em về khái niệm này rồi. Anh em chưa xem có thể tham khảo thêm tại đây:

>> 3 Quy luật từ huyền thoại Wyckoff - chìa khóa cho mọi thành công trong giao dịch chứng khoán

Trong giai đoạn B, dòng tiền lớn đang cố gắng tích lũy cổ phiếu với giá tương đối thấp để đẩy giá lên. Quá trình tích lũy của họ có thể kéo dài rất lâu (đôi khi một năm hoặc hơn),bao gồm hai công việc: mua cổ phiếu ở mức giá thấp hơn và kiểm tra xem còn lượng cung nào trên thị trường đáng kể hay không (đối với cổ phiếu hoặc thị trường có thanh khoản cực cao). Do đó sẽ thường có nhiều ST (test lần thứ hai) trong giai đoạn B, cũng như sẽ xuất hiện những hành động Upthrust (tương tự false breakout) tại vùng biên trên của trading range. Nhìn chung, hoạt động chính của họ là mua ròng một lượng lớn cổ phiếu trong vùng trading range, với mục tiêu mua được càng nhiều lượng cổ phiếu đang trôi nổi trên thị trường càng tốt. Việc mua và bán của các tổ chức lớn sẽ thể hiện qua những lần giá tăng lên giảm xuống trong trading range.

Đầu giai đoạn B, dao động giá có xu hướng rộng và kèm theo thanh khoản cao. Tuy nhiên, khi các tổ chức hấp thụ nguồn cung, thanh khoản khi giá giảm xuống trong TR sẽ giảm dần. Khi có vẻ như lượng cung đã cạn kiệt, thị trường lúc này sẽ chuyển sang giai đoạn C.

Giai đoạn C - Kiểm tra

Trong giai đoạn C, giá cổ phiếu đã trải qua một đợt test quyết định đối với nguồn cung còn lại, cho phép dòng tiền lớn xác định xem liệu cổ phiếu đã sẵn sàng để được đẩy lên hay chưa.

Như đã có nói ở trên, một hành động phá vỡ giả (Spring) là một hành động giá di chuyển xuống dưới mức hỗ trợ (biên dưới) của Trading Range (đã được hình thành trong giai đoạn A và B) rồi nhanh chóng đảo chiều và quay trở lại Trading Range. Đó có thể được xem là một bear trap. Chủ yếu là để rủ bỏ những dòng tiền nhỏ hơn đang cố mua vào và đặt stoploss ngay vùng đáy cũng như kiểm tra xem lượng cung có bị kích thích và làm giá giảm thêm hay không.

Khi false breakout hay Spring xuất hiện cũng có nghĩa là lần test quyết định này thành công. Spring có thanh khoản thấp chỉ ra rằng giá đã sẵn sàng để được đẩy lên cao thoát ra khỏi vùng trading range và tạo nên xu hướng mới. Đây cũng là thời điểm để đặt một lệnh mua cổ phiếu hợp lý.

Tiếp theo Srping, nếu có sự xuất hiện của một SOS (sign of Strength) thì đó chính là sự xác nhận của dòng tiền lớn đã mua vào mạnh hơn.

Tuy nhiên, như đã lưu ý trong Sơ đồ tích lũy số 2, việc test cung có thể xảy ra trong TR mà không cần có hành động Spring cũng được; nhưng nếu điều này xảy ra, việc xác định Giai đoạn C có thể khó khăn hơn.

Giai đoạn D - Hoàn thành

Nếu chúng ta đang đi đúng hướng, thì điều mà chúng ta có thể dễ dàng thấy ở đây là lực cầu đang chiếm ưu thế so với lực cung. Làm sao để biết được điều đó? Đơn giản là lúc đó giá sẽ xuất hiện một mô hình SOS cụ thể là một cây nến tăng dài kèm theo thanh khoản cao hoặc các phản ứng của giá (LPSs) như nến giảm nhỏ kèm thanh khoản thấp. Trong giai đoạn D, giá sẽ di chuyển ít nhất lên biên trên của Trading range. Các LPS trong giai đoạn này thường là những vị trí tuyệt vời đặt thêm lệnh mua cổ phiếu.

Giai đoạn E - Triển khai

Trong giai đoạn E, giá cổ phiếu rời khỏi trading range, lực cầu của phe mua bấy giờ đang kiểm soát hoàn toàn thế trận và giá cứ thế mà tăng mạnh. Lúc này sẽ có những hành động rung lắc trên đường đi của giá, tuy nhiên nó cũng xảy ra rất nhanh, thời gian phần lớn là giá tăng. Các trading range mới hình thành có thể là do chốt lãi cũng như mua lại cổ phiếu bổ sung (tái tích lũy) bởi dòng tiền lớn chưa đạt được mục tiêu giá cuối cùng của họ nên họ sẽ chỉ mua chứ chưa bán.

>> Xem thêm các video về phương pháp Wyckoff/VSA/VPA/ Jesse Livermore tại kênh Youtube của Kakata:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLA1ynWIlMvIXnpkOFdgvoq0XzgRrnufe9

Bảo Khánh - fb.com/baokhanh34​


Xem thêm:

>> Volume Price Analysis- Nền tảng cơ bản trong quy luật Wyckoff