Mẫu đối chứng là gì

(Last Updated On: 17/06/2021)

Thiết kế thử nghiệm có đối chứng trong phương pháp thử nghiệm & Áp dụng nghiên cứu thử nghiệm trên thực địa.

Thiết kế thử nghiệm có đối chứng

Chỉ đo lường sau thử nghiệm

Thiết kế này chỉ đo lường biến phụ thuộc sau khi đã tiến hành thử nghiệm. Thiết kế này được sử dụng khá nhiều trong lĩnh vực Marketing.

Ví dụ 1. Một nhóm nghiên cứu muốn tìm hiểu tác động của chương trình quảng cáo sử dụng sản phẩm mẫu. Họ có thể áp dụng thiết kế nghiên cứu này như sau:

Bước 1. Phân nhóm ngẫu nhiên khách hàng tiềm năng vào hai nhóm: Nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng. Các tác giả có thể kiểm tra mức độ tương đồng của hai nhóm về các chỉ số cơ bản như tuổi, giới tính, thu nhập, trình độ học vấn,…

Bước 2. Tiến hành thử nghiệm: Cho các thành viên trong nhóm thử nghiệm được sử dụng sản phẩm mẫu, trong khi đó nhóm đối chứng không được sử dụng sản phẩm mẫu.

Bước 3. Các thành viên tham gia nghiên cứu trong hai nhóm đều được gởi phiếu giảm giá khi mua sản phẩm ở siêu thị. Phiếu giảm giá được mã hóa để phân biệt, nhận dạng được cả hai nhóm.

Bước 4. Sau một khoảng thời gian (ví dụ: 1 tháng), số phiếu giảm giá của mỗi nhóm thu lại từ siêu thị sẽ được đếm. So sánh kết quả hai nhóm để đánh giá sự tác động của hoạt động quảng cáo sản phẩm mẫu.

Đo lường trước – sau thử nghiệm

Thiết kế trước – sau thử nghiệm khác với thiết kế “chỉ đo lường sau khi thử nghiệm” ở chỗ các biến phụ thuộc được đo lường trước và sau khi tiến hành thử nghiệm. Thiết kế này giúp kiểm soát tốt các tác động ngoại lai và rất phù hợp với việc đánh giá tác động ngắn hạn của thí nghiệm.

Ví dụ 2. Giả sử một nhóm tác giả muốn nghiên cứu tác động của chuyến thăm và nói chuyện về bóng đá của danh thủ Messi tới niềm đam mê bóng đá của trẻ em Việt Nam. Nhóm nghiên cứu có thể áp dụng thiết kế nghiên cứu thử nghiệm “trước – sau” có đối chứng như sau:

Bước 1. Chọn một mẫu trẻ em. Phân ngẫu nhiên họ thành hai nhóm: Nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm. Kiểm tra sự tương đồng của hai nhóm về các chỉ số cơ  bản như giới tính, tuổi, sở thích bóng đá,…

Bước 2. Đo lường trước: cả hai nhóm đều được đo lường về sự đam mê bóng  đá và hiểu biết về bóng đá.

Bước 3. Khi danh thủ Messi đến thăm và chia sẻ về bóng đá, chỉ có nhóm thử nghiệm được tham gia dự buổi nói chuyện và chia sẻ của danh thủ Messi. Nhóm đối chứng không được tiếp xúc hoặc nghe bất kỳ bài nói chuyện nào của danh thủ Messi.

Bước 4. Sau buổi nói chuyện của danh thủ Messi, nhóm nghiên cứu có thể đo lường lại niềm đam mê bóng đá của hai nhóm (khoảng sau 1 tuần).

Bước 5. Nhóm nghiên cứu so sánh sự thay đổi về suy nghĩ, thái độ đối với môn bóng đá của hai nhóm và sự khác biệt này là do được tham dự nghe buổi nói chuyện của danh thủ Messi.

Khác với thử nghiệm đo lường sau, thử nghiệm trước – sau không chỉ cho phép so sánh các kết quả cuối cùng mà so sánh sự khác biệt giữa kết quả đo lường sau và trước. Thiết kế thử nghiệm trước – sau vì vậy cho phép đo lường trực tiếp tác động của thử nghiệm và so sánh tác động của thử nghiệm so với không có thử nghiệm.

Đo lường

trước

Thực

hành

Đo lường

sau

Thử nghiệm Y0 X Y1 Y0 – Y1
Đối chứng Y0 Y1 Y0 – Y1

Bảng 1. Mô hình thiết kế thử nghiệm “trước – sau”.

Áp dụng nghiên cứu thử nghiệm trên thực địa

Thiết kế thử nghiệm như đã trình bày ở trên là thiết kế đầy đủ với điều kiện nhà nghiên cứu có thể kiểm soát toàn bộ quá trình, kể từ việc lựa chọn đối tượng, loại bỏ ảnh hưởng ngoại lai, tới việc điều tiết các mức độ/giá trị của biến độc lập. Điều này thường được đảm bảo với các thiết kế thử nghiệm ở phòng thí nghiệm.

Nghiên cứu thử nghiệm ngoài thực địa thường khó có thể đảm bảo điều kiện trên. Vì vậy, thiết kế nghiên cứu cận thử nghiệm được gọi là quasi experiment thường được áp dụng. Với dạng thiết kế thử nghiệm này, các nhà nghiên cứu coi những biến động trên thực địa (chính sách, thị trường, chính trị,…) là “sự can thiệp” giống như biến độc lập được điều chỉnh trong thử nghiệm và tìm cách đánh giá tác động của những can thiệp đó.

Một số dạng áp dụng thông dụng bao gồm:

Đánh giá tác động của dự án hoặc chính sách

Mỗi một dự án hoặc chính sách mới có thể coi là một sự can thiệp, tương đồng với điều tiết biến độc lập trong nghiên cứu thử nghiệm. Vì vậy đánh giá tác động của của dự án hoặc chính sách, các nhà nghiên cứu có thể áp dụng phương pháp thử nghiệm không đầy đủ. Trong đánh giá các nhà nghiên cứu có thể chọn nhóm đối chứng (những cá thể tương đồng song không thuộc nhóm điều chỉnh chính sách hoặc dự án) và nhóm thuộc diện chính /dự án. Chỉ số tác động (biến phụ thuộc), ví dụ như chất lượng cuộc sống hay nhận thức về một vấn đề gì đó được đo lường trước và sau dự án/chính sách. Các nhà nghiên cứu có thể so sánh sự khác biệt trong thay đổi giữa trước – sau của hai nhóm để đánh giá sự tác động của chính sách/dự án. Khó khăn thường là khó tìm nhóm đối chứng tương đồng, đặc biệt khi đánh giá tác động của chính sách có tầm bao phủ toàn quốc và cho mọi đối tượng. Một số kỹ thuật thống kê có thể giúp xác định nhóm đối chứng tương đồng nhất trên thực địa, song không thể có độ tương đồng cao như trong thiết kế thử nghiệm đầy đủ (ở phòng thí nghiệm).

Đánh giá tác động của biến động trên thực địa (chính trị, thị trường, hoặc tự nhiên)

Các nhà nghiên cứu cũng có thể đánh giá tác động của biến động chính trị, biến động của thị trường hay tự nhiên tới hành vi của doanh nghiệp, người dân,…Chỉ có điều khác là biến động này không có tính “chủ động” như chính sách dự án. Vì vậy thường khó có những khảo sát cơ sở theo đúng mục tiêu và các nhà nghiên cứu phải sáng tạo trong việc sử dụng các dữ liệu sẵn có trước biến động để làm cơ sở so sánh.

Liên quan: Phương pháp thử nghiệm là gì?

Mẫu đối chứng là gì
Sự khác biệt giữa Nhóm đối chứng và Nhóm thực nghiệm - Giáo DụC

Nhóm kiểm soát so với nhóm thử nghiệm

Thí nghiệm khoa học thường được thực hiện dưới hình thức thí nghiệm có đối chứng. Sở dĩ những nghiên cứu thực nghiệm này có tên gọi như vậy là do các đối tượng trong thí nghiệm được chia thành hai nhóm gọi là nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Hai nhóm bao gồm các chủ thể giống hệt nhau về bản chất. Có rất nhiều điểm giống nhau có chủ ý và có chủ ý nên khó có thể phân biệt được sự khác biệt giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt quan trọng giữa hai nhóm khiến nhà nghiên cứu đối xử khác biệt giữa hai nhóm. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu sự khác biệt này.

Nhóm kiểm soát là gì?

Nhóm đối chứng là nhóm trong thí nghiệm khoa học không tiếp xúc với nghiên cứu với nghĩa là không tiếp xúc với các điều kiện thí nghiệm. Luôn có một biến số được kiểm tra với sự thay đổi của các đối tượng được ghi lại và phân tích. Các đối tượng trong nhóm kiểm soát không được tiếp xúc với biến này mà ảnh hưởng của chúng đang được phân tích. Những đối tượng này vẫn không bị ảnh hưởng đến biến và giúp giải thích những thay đổi trong nhóm thử nghiệm dựa trên biến. Trên thực tế, các đối tượng trong nhóm đối chứng rất quan trọng vì chúng loại trừ bất kỳ lý do nào khác dẫn đến những thay đổi trong nhóm thực nghiệm.


Trong một thí nghiệm mà tác dụng của một loại thuốc sẽ được kiểm tra, nhóm đối chứng không nhận được thuốc trong khi nó được sử dụng cho các đối tượng trong nhóm thực nghiệm. Do đó, các đối tượng trong nhóm đối chứng đóng vai trò như một công cụ so sánh khi nhà nghiên cứu đánh giá tác dụng của thuốc.

Nhóm thử nghiệm là gì?

Nhóm thực nghiệm trong các thí nghiệm có đối chứng là nhóm nhận biến mà ảnh hưởng của chúng đang được nghiên cứu. Có những thử nghiệm mà rất khó để cô lập biến được thử nghiệm. Điều này đòi hỏi phải tạo ra một nhóm kiểm soát không tiếp xúc với biến. Do đó, chúng ta có những đối tượng không có gì xảy ra trong khi có những đối tượng trong nhóm thực nghiệm được tiếp xúc với biến số. Điều này cho phép nhà nghiên cứu đối chiếu các đối tượng và anh ta có thể khẳng định các tác động là do biến số.

Sự khác biệt giữa Nhóm đối chứng và Nhóm thực nghiệm là gì?


• Các thí nghiệm khoa học được gọi là thí nghiệm đối chứng đòi hỏi phải tạo ra một nhóm thí nghiệm và một nhóm đối chứng.

• Hai nhóm gần như giống hệt nhau, và không có sự khác biệt về thành phần.

• Tuy nhiên, các đối tượng trong nhóm thực nghiệm tiếp xúc với biến đang được kiểm tra trong khi các đối tượng trong nhóm đối chứng không tiếp xúc với biến này.

• Nhóm đối chứng giúp giải thích ảnh hưởng của biến đối với các đối tượng trong nhóm thực nghiệm vì nó không tiếp xúc với biến.

Mẫu CRM hay còn gọi là mẫu chuẩn đối chứng, đã biết trước thành phần hóa học trong mẫu và được sử dụng cho Máy phân tích quang phổ.

Metal Power là đơn vị sản xuất mẫu CRM đầu tiên được công nhận tại Châu Á cho kim loại rắn. Chúng tôi cung cấp các Mẫu đã được chứng nhận thành phần hóa học (CRM – Certified Reference Materials) và Mẫu thiết lập máy quang phổ (SUS – Setting-up Samples), gồm Gang, Sắt, Nhôm, Đồng, Chì, Kẽm... Các mẫu CRM được sản xuất bằng các kỹ thuật tiên tiến để đạt được tính đồng nhất và đảm bảo chất lượng cao nhất cho các loại hợp kim.

Mẫu đối chứng là gì

Mẫu CRM là mẫu kim loại đi kèm với giấy chứng nhận cho biết thành phần phần trăm các nguyên tố trong mẫu. Khách hàng đang sử dụng máy phân tích quang phổ thì mẫu CRM là mẫu bắt buộc phải có. Mẫu CRM đã được chứng nhận thành phần nguyên tố trong nó, với độ tin cậy cao nên nó được xem như là một “trọng tài” để đánh giá sự chính xác của thiết bị.

Khi phân tích mẫu CRM, so sánh kết quả trên máy với kết quả của giấy chứng nhận, người sử dụng có thể đánh giá được độ chính xác của máy đúng/sai hay lệch gì không, làm căn cứ quyết định chỉnh lại máy quang phổ.

Các khách hàng đang sử dụng máy phân tích quang phổ nên có các mẫu CRM tương ứng với loại vật liệu mà mình đang sản xuất để đối chứng/tham khảo, đánh giá độ tin cậy của máy quang phổ cũng như chất lượng sản phẩm đầu ra của mình. Biết được tầm quan trọng của mẫu CRM đối với máy quang phổ trong ngành sản xuất kim loại/hợp kim, Công ty Metal Power chúng tôi đã tiến hành sản xuất những loại vật liệu này ngay tại Phòng Thí Nghiệm của chúng tôi. Chúng tôi cũng cung cấp một vài tiêu chuẩn nhất định để giảm thiểu chi phí cho việc mua các mẫu CRM, khách hàng có thể thực hiện kiểm tra nội bộ theo các tiêu chuẩn nhất định. Nhiều khách hàng đang dùng máy quang phổ thương hiệu khác Metal Power vẫn lựa chọn mẫu CRM do chúng tôi sản xuất để đối chứng.

Các mẫu CRM của chúng tôi tuân theo ILAP (Inter-Laboratory Accreditation) và Phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO-17025 về thử nghiệm. Chúng tôi cũng tuân thủ các nguyên tắc ISO 30-35 trong việc sản xuất các mẫu CRM. Mỗi CRM đi kèm với một giấy Chứng nhận Kiểm tra cung cấp thông tin về thành phần nguyên tố, Độ lệch Chuẩn và Độ không chắc chắn, và ILAP.

Mẫu đối chứng là gì