TỔNG QUAN VỀ THỜI KỲ PHỤC HƯNG
Phục Hưng là một phong trào văn hóa thường được xem là bao phủ giai đoạn từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, khởi đầu tại Firenze (Ý) vào Hậu kỳ Trung Đại, sau đó lan rộng ra phần còn lại của châu Âu ở những quy mô và mức độ khác nhau. Phục Hưng bao hàm sự nở rộ của các nền văn học tiếng Latin cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sự phục hồi việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép phối cảnh tuyến tính và các kỹ thuật nhằm biểu diễn hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập.
Trong chính trị, Phục Hưng đã đóng góp vào sự phát triển những hiệp ước ngoại giao, và trong khoa học là một sự quan tâm lớn hơn tới quan sát thực nghiệm. Các sử gia thường lập luận những biến đổi về trí tuệ này là một cầu nối giữa Trung Cổ và thời hiện đại. Mặc dù Phục Hưng chứng kiến những cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực, cũng như những thay đổi chính trị-xã hội, nó vẫn được biết đến nhiều nhất bởi những thành tựu lớn lao về mỹ thuật và những cống hiến của những vĩ nhân đa tài như Leonardo da Vinci hay Michelangelo đã làm xuất hiện thuật ngữ Vĩ nhân Phục Hưng (“Renaissance Great Man”). Có một cuộc tranh luận kéo dài trong giới sử học về quy mô, phân kì của văn hóa và thời đại Phục Hưng, cũng như giá trị và ý nghĩa của nó. Bản thân thuật ngữ Renaissance, do nhà sử học Pháp Jules Michelet đặt ra năm 1855 cũng là đối tượng của những chỉ trích, rằng nó ngụ ý một sự mô tả thái quá về giá trị tích cực của thời kỳ này.
Phục Hưng đã tác động sâu sắc tới đời sống trí thức châu Âu trong thời sơ kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Ý, lan ra khắp châu Âu vào thế kỉ 16, ảnh hưởng của nó hiện diện trong văn học, triết học, mĩ thuật, âm nhạc, chính trị, khoa học, tôn giáo, và các khía cạnh khác của đời sống tinh thần. Các học giả Phục Hưng sử dụng phương pháp nhân văn trong nghiên cứu, và khai thác hiện thực đời sống và cảm xúc con người trong nghệ thuật.
2. Bối cảnh và địa điểm hình thành
3. Nguyên nhân làm xuất hiện phong trào Phục Hưng
Nguyên nhân chính xuất hiện phong trào văn hóa phục hưng: - Hậu kì trung đại, bộ mặt kinh tế Tây Âu có nhiều thay đổi, QHSX TBCN hình thành, sự tiến bộ của KHKT - Do sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến. Chế độ phong kiến kìm hãm sự phát triển của xã hội - Giai cấp tư sản có thể lực về kinh tế nhưng không có địa vị xã hội dẫn tới sự đấu tranh giành địa vị xã hội Bên cạnh đó, sự phát triển khoa học và kỹ thuật của thời Trung Cổ đã góp phần phát triển nên thời Phục hưng.
4. Nội dung tư tưởng phong trào văn hóa Phục Hưng
5. Tính chất của phong trào văn hóa Phục Hưng
- Là phong trào của giai cấp tư sản nên nội dung của nó mang tính chất tư sản. Trong bối cảnh lúc đó, phong trào thực sự là một cuộc cách mạng lớn với những tác động tích cực và toàn diện lên đời sống xã hội. + Phong trào mang tính chất tư sản tiến bộ khi phản ánh nội dung chống giáo hội và chống phong kiến. Điều này phản ánh nhu cầu của giai cấp tư sản đổi mới về văn hoá và thủ tiêu sự kiểm soát của giáo hội đối với tư tưởng. + Đề cao giá trị con người và tự do cá nhân. + Đề cao tinh thần dân tộc. - Phong trào Văn hoá Phục hưng phản ánh xu thế mới đang lên của giai cấp tư sản, chống lại hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến lỗi thời và khủng hoảng. Vì thế, về cơ bản nó có nội dung tích cực, tiến bộ, thúc đẩy sự phát triển của văn hoá, tư tưởng và khoa học, kĩ thuật.
6. Thành tựu của phong trào văn hóa Phục Hưng
3. Ý nghĩa của phong trào văn hóa Phục hưng
- Lên án giáo hội Ki-tô, tấn công vào trật tự phong kiến, đánh bại tư tưởng phong kiến lỗi thời. - Đây là cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến trên mặt trận văn hóa tư tưởng. - Đề cao tự do, xây dựng thế giới quan tiến bộ
BÀN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHONG TRÀO PHỤC HƯNG ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI?
Sau khi những bước đi quay về với chủ nghĩa cổ điển trong nghệ thuật được Nicola Pisano thí nghiệm, các họa sĩ Florence, đứng đầu là Masaccio đã nỗ lực minh họa hình dạng con người một cách hiện thực nhất, phát triển các kĩ thuật áp dụng phối cảnh và ánh sáng một cách tự nhiên hơn. Các triết gia chính trị, nổi tiếng nhất là Niccolò Machiavelli tìm cách mô tả đời sống chính trị theo cách lý tính, thay vì lý tưởng hóa như trước kia. Một đóng góp chủ chốt cho chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng Ý là tác phẩm nổi tiếng của Pico della Mirandola, “De hominis dignitate” (“Về Phẩm cách Con người”, 1486), bao gồm một loạt bài tiểu luận về triết học, tư tưởng tự nhiên, niềm tin và ma thuật chống lại bất kì kẻ thù nào trong địa hạt lý trí. Thêm vào việc nghiên cứu tiếng Latinh cổ điển và tiếng Hy Lạp, các tác giả Phục Hưng cũng ngày càng sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ dân tộc: kết hợp với sự xuất hiện của in ấn, điều này cho phép ngày càng nhiều người tiếp cận được với sách, đặc biệt là Kinh Thánh
Tuy nhiên, sự thật là không phải tới thời Lorenzo nắm quyền Phục Hưng mới ra đời, mà bản thân gia đình Medici cũng chỉ thừa hưởng truyền thống trọng nghệ thuật của Firenze và phát huy nó. Một số người cho rằng Firenze trở thành nơi khởi đầu Phục Hưng là do may mắn, nghĩa là đơn thuần bởi vì những vĩ nhân ngẫu nhiên sinh ra ở đây: cả da Vinci, Botticelli và Michelangelo đều là người xứ Toscana (mà Firenze là thủ phủ). Tuy nhiên các nhà sử học khác phản đối ý kiến cho rằng đây là sự ngẫu nhiên và quy cho truyền thống trọng nghệ thuật của Firenze
Sự sáng tạo ra Adam, một tác phẩm nổi tiếng của Michelangelo
Một trong những đặc điểm phân biệt của mỹ thuật thời kỳ Phục Hưng là sự phát triển phép phối cảnh tuyến tính có tính hiện thực cao. Giotto di Bondone (1267-1337), được coi là người đầu tiên thực hiện một tác phẩm bích họa như là một cánh cửa sổ để bước vào không gian, nhưng tác phẩm của ông đã không gây được nhiều ảnh hưởng cho đến tận thời của Filippo Brunelleschi (1377–1446) và những tác phẩm tiếp theo của Leon Battista Alberti (1404-1472), quan điểm này được chính thức hóa thành một kỹ xảo nghệ thuật. Sự phát triển của quan điểm này là một phần của một xu hướng rộng lớn hơn đối với chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật, đạt đến độ trưởng thành kể từ tranh tường của Masaccio (1401-1428). Để đạt được điều đó, các họa sĩ đã phải phát triển các kỹ thuật khác nhau, nghiên cứu mảng sáng-tối, nổi tiếng nhất trong số đó là trường hợp giải phẫu người của Leonardo da Vinci. Đằng sau những thay đổi trong phương pháp nghệ thuật, là một khao khát được làm mới lại muốn miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, và làm sáng tỏ các tiên đề thẩm mỹ, với các tác phẩm đi đầu của Leonardo, Michelangelo và Raffaello đã đại diện cho đỉnh cao của thuật và đã được nhiều nhiều họa sĩ khác học hỏi. Những nhân vật đáng chú ý khác bao gồm Sandro Botticelli, làm việc cho gia tộc Medici ở Firenze, một người Firenze khác là Donatello và Tiziano Vecelli ở Venezia, cùng nhiều người khácĐồng thời, tại Hà Lan, khi mà văn hóa nghệ thuật đang phát triển, những tác phẩm tiêu biểu của Hugo van der Goes và Jan van Eyck đã gây nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của hội họa tại Ý, cả về kỹ thuật với sự ra đời của sơn dầu trên vải lẫn phong cách trong sự diễn đạt về chủ nghĩa tự nhiên. (xem Thời kỳ Phục Hưng tại Hà Lan) Sau này, những tác phẩm của Pieter Bruegel il Vecchio đã truyền cảm hứng cho các họa sĩ về chủ đề miêu tả cuộc sống hàng ngày. Sự giao thoa văn hóa bắc-nam châu Âu khiến cho từ thế kỷ 16, có thể nói toàn châu Âu đã chuyển mình sang một nền mỹ thuật mới.
Chân dung tự họa của Leonardo da Vinci. Những tác phẩm kinh điển của ông như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùngvà Người Vitruvius là đại diện cho nghệ thuật thời Phục Hưng
Kinh Thương Xót trong bản Chigi codex từ tác phẩm Missa Ecce ancilla Domini của Johannes Ockeghem
Galileo Galilei. Tranh chân dung chì màu bởi nhà điêu khắc Phục Hưng Leone Leoni
Alexander VI, một Giáo hoàng nhà Borgia khét tiếng gian dâm và tham nhũng.
Bức Le Triomphe de la Mort (“Thần Chết Khải hoàn”, vẽ khoảng 1562) của Pieter Bruegel phản ánh những biến động và sợ hãi mang tính toàn xã hội theo sau bệnh dịch hạch tàn phá châu Âu Trung Cổ.
Erasmus của Rotterdam năm 1523, tranh minh họa bởi Hans Holbein Trẻ
MỸ THUẬT THỜI PHỤC HƯNG
1. Các giai đoạn phát triển của hội họa Phục Hưng ở Ý
Giaiđoạn 1 – Thời kì Mở đầu: Bắt đầu từ khoảng thế kỉ XIII tại Ý với những tên tuổi như: Sipawe, Giotto di Bontone(1267 – 1337), Donatello(1386 – 1486)… Tranh của Giotto bắt đầu khám phá không gian vào trong tranh, có sự xa gần mặc dù chưa cụ thể, mới chỉ là sơ khai, chưa tách bạch, chiều sâu chưa lớn, chưa rõ ràng…
Huyền thoại thánh Francis của Giotto
Giai đoạn 2: Kéo dài khoảng 200 năm từ thế kỉ XIV Đến cuối thế kỉ XV. Với những tên tuổi nổi tiếng như: Masaccio, Angelico hay nổi bật là Sandro Botticelli.
Đuổi khỏi vườn địa đàng của Masaccio Với Masaccio, ông là người mở đầu cho cho nghệ thuật thế kỉ XV. Ông được thừa hưởng thành tựu về phép phối cảnh, hình hoạ, điêu khắc, ánh sáng trong tranh rõ ràng, các mảng sáng tối trên nhân vật sắc nét, tương phản, được gợi khối tròn và có sự mềm mại. Chiều thứ ba của không gian được diến tả tốt nhờ sự chắc chắn về hình đậm nhạt và tương quan nóng lạnh của màu sắc trong tranh. Ngoài cái đẹp vè hình thể, khối, ông còn thể hiện được rõ tình cảm trên khuôn mặt nhân vật trong tranh như bức tranh ở trên.
Tuy nhiên, khi nói tới giai đoạn này, người để lại nhiều tác phẩm còn giữ được khá nguyên vẹn và nổi tiếng cho tới nay đó là Botticelli. Nói tới ông, người ta hay nhớ tới các bức: Mùa xuân, Sự sinh ra của thần vệ nữ, Lễ truyền tin, …với đề tài tôn giáo và thần thoại. tranh của ông diễn tả rất thành công cơ thể mềm mại, da thịt căng tròn, đầy cảm xóc, thân hình mượt mà, sống động của thần Vệ Nữ, một cái đẹp tổng thể, hài hoà của nhiều yếu tố tạo hình như đường nét, màu sắc, chất biểu cảm của bức tranh đã làm mờ đi những khiếm khuyết trên cơ thể của nàng. Bức tranh này hiện đang được trưng bày trong bảo tàng Uffizi tại Florence.
Ở thời kì này, mỹ thuật đã được đẩy lên một mức cao hơn so với giai đoạn mở đầu. + Về bố cục chặt chẽ hơn, nhiều kiểu bố cục mới, đa dạng hơn. + Hình khối chắc chắn, rõ ràng, mạch lạc. + Tỉ lệ, giải phẫu nhân vật cơ bản hoàn chỉnh, chính xác, cân đối . + Không gian trong tranh rõ ràng cụ thể, có sự tách bạch giữa nhân vật và khung cảnh xung quanh. + Xa gần trong tranh được áp dụng một cách triệt để. + Màu sắc tương đối hài hoà, Êm cúng, tương phản nhẹ. + Tình cảm trong tranh được thể hiện rõ ràng, nhiều cảm xúc của các nhân vật được miêu tả xinh động. + Ánh sáng trong tranh giai đoạn 2 được sử dụng một cách triệt để và sử dụng linh hoạt, tập chung, chính xác, bước một bước xa hơn với giai đoạn đầu.
Giai đoạn 3: Từ khoảng 1490/ 1500 cho đến 1520. Đây được coi là thời kì đỉnh cao của nghệ thuật Phục Hưng, các tác phẩm đạt tới sự hoàn mĩ, tinh tế và trở thành các tác phẩm kinh điển. Các danh họa thời kì này có thể kể tới là tam trụ của nền Phục Hưng: Raphael, Michelangelo và Leonardo da Vinci. Với Michelangelo, hầu hết các tác phẩm để đời của ông đều là điêu khắc, xét về hội họa thì người ta nhớ đến ông qua bức “Ngày phán xét cuối cùng” được vẽ trên tường nhà nguyện Sistine trong 04 năm liên tục và hoàn thành trong khoảng 1536 and 1541.
Trước đó, ông cũng đã treo mình liên tục 4 năm nữa từ 1508 tới 1512 để vẽ nên bức tranh trên toàn bộ trần của nhà nguyện này
Trần nhà nguyện Sistine Nói về Leonardo da Vinci thì người ta không thể không nhắc tới bức tranh “Nàng Mona Lisa” vốn chưa bao giờ ngừng làm vơi giấy mực để bình phẩm về nó (đang được lưu giữ ở bảo tàng Louvre, Pháp).
Nàng Mona Lisa của Davinci Hay những bức tranh đầu màu sắc, tinh tế, tỉ mỉ sống động trong bảo tàng Vatican của Raphael.
Giải cứu Thánh Peter
Trường học Athen
Tranh luận về Bí tích Thánh Thể
Trục xuất Heliodorus từ đền thờ Tranh của thời kì này chặt chẽ hơn về bố cục, nhiều kiểu bố cục mới, đa dạng hơn và đạt đỉnh cao của nghệ thuật. + Hình khối chắc chắn, rõ ràng, mạch lạc, tả khối chi tiết của từng bộ phận, từng nếp vải, đạt chuẩn cho tất cả các hình thức thể hiện. +Tỉ lệ, giải phẫu nhân vật hoàn chỉnh, chính xác, cân đối về tỉ lệ. Giai đoạn này là đỉnh cao về tỉ lệ con người (7 1/2), chuẩn mực về con người, là một trong những yếu tố tạo thành nghệ thuật Phục Hưng độc đáo. + Không gian trong tranh rõ ràng cụ thể, rộng, có sự kết hợp con người với thiên nhiên, có sự tách bạchgiữa nhân vật và khung cảnh xung quanh, giữa các nhân vật chính phụ với nhau…đây cũng là một trong những yếu tố tạo thành nghệ thuật Phục Hưng vô cùng Phục Hưng độc đáo. + Xa gần trong tranh được áp dụng một cách triệt để, trong tranh thể hiện rõ được đường tầm mắt, điểm tụ…xa gần cả về đậm nhạt, cả về hình. Đạt chuẩn về luật xa gần như bức trường học Athen. + Màu sắc tương đối hài hoà, chắc chắn, ấm cúng tình cảm, tương phản nhẹ, thể hiện được gam màu chủ đạo. + Tình cảm trong tranh được thể hiện rõ ràng, nhiều cảm xúc của các nhân vật được miêu tả xinh động, buồn, vui mừng, giận giữ, đau khổ, lo sợ, hãi hùng, kính phục… + Ánh sáng trong tranh giai đoạn 3 – giai đoạn Phục Hưng được sử dụng một cách triệt để và sử dụng linh hoạt, tập chung, chính xác, bước một bước xa hơn với giai đoạn 2, đi đến thời hưng thịnh, đỉnh cao về hội hoạ mà không thể không kể đến yếu tố ánhsáng trong tranh.
2. Một số họa sỹ tiêu biểu nhất thời kỳ Phục Hưng
2.1. Leonado da Vinci (1452-1519) Leonado da Vinci là nhà bác học có nhiều công trình nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực vật lý, toán học, địa lý, giải phẫu, triết học, âm nhạc, điêu khắc,.. Về hội họa, ông chú trọng diễn tả những nét tinh tế trong đời sống nội tâm. Các tác phẩm nổi tiếng nhất: La Jaconde (Mona Lisa) và Bữa Tiệc Cuối Cùng (The Last Super), Đức mẹ đồng trinh trong hang đá,…
The Last Super - Leonardo da Vinci
Bữa ăn cuối cùng là bức bích họa 450 x 870cm được sáng tác vào khoảng năm 1495 đến 1498, vẽ trực tiếp lên tường phòng ăn ở tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Italy. Nội dung miêu tả khoảnh khắc chúa Jesus nói với 12 môn đồ: "Trong các con có kẻ muốn nộp Ta". Hình ko đủ lớn để thấy sự tinh tế của họa sĩ khi diễn tả phản ứng của từng môn đồ trên nét mặt họ.
Bức tranh được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương, hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp. Đây là bức tranh làm tốn nhiều giấy mực nhất trong lịch sử2.2. Michelangelo Buonarroti (1475–1564)
Michelangelo Buonarroti thường được biết đến dưới tên gọi Michelangelo, là nhà điêu khắc, họa sĩ, kiến trúc sư và cũng là nhà thơ.
Pietà, tức Đức Mẹ Sầu Bi, miêu tả cảnh Đức mẹ Mary bồng Chúa Jesus sau khi bị đóng đinh lên thập tự giá, hoàn thành khi Michelangelo mới 24 tuổi.
Tượng David, hoàn thành năm Michelangelo 29 tuổi, là bức tượng nổi tiếng nhất thời kỳ Phục hưng.2.3. Raffaello (1483–1520)
Ông tên đầy đủ là Raffaello Sanzio da Urbino là họa sĩ và kiến trúc sư Ý, một trong ba người khổng lồ của mỹ thuật thời Phục hưng, dù mất lúc chỉ mới 37 tuổi. Tác phẩm của ông thường mô tả những phụ nữ đẹp dịu dàng, những quang cảnh tươi vui, sung túc ..
Tác phẩm cuối cùng Raphael vẽ Đức Mẹ, được nhiều nhà phê bình cho là đỉnh cao nhất của nghệ thuật Kitô giáo về đề tài Đức Mẹ tính cho đến ngày nay
Tác phẩm được cho là Raphael vẽ ko có nguyên mẫu, chỉ theo trí tưởng tượng về một cái đẹp lí tưởng. Nhiều nhà phê bình đã cho rằng vời "Đức Mẹ Granduca" Raphael đã tạo nên một mẫu mục về hình tượng Đức Mẹ trong hội họa và cả trong tâm thức người phương Tây.Nguồn: gocnhosantruong.com và bài viết của chimkudo - library.chimkudopro.com
ÂM NHẠC THỜI KỲ PHỤC HƯNG
1. Đôi nét về âm nhạc thời kỳ Phục Hưng
Âm nhạc thời kì Phục Hưng được hình thành từ khoảng thế kỷ 14 vừa kết thúc thời kì trung cổ tiếp nối dòng nhạc baroque. Đây là thời kỳ của những thay đổi mạnh mẽ ở châu Âu khi việc tái khám phá di sản văn tự của Hi Lạp và La Mã cổ đại làm hồi sinh niềm hứng thú lớn lao đối với nghiên cứu khoa học, nghệ thuật...
Dòng nhạc thế tục: là âm nhạc không tôn giáo, tách biệt với tôn giáo. Được phát triển ở thời kì Trung Cổ đến thời kì Phục Hưng thì được sử dụng rộng rãi hơn. Dòng nhạc này viết về tình yêu, châm biếm chính trị, tinh thần thượng võ, các tác phẩm sân khấu và vũ nhạc.Trong âm nhạc thế tục, các nhạc cụ thường được sử dụng và rất phổ biến, lời thơ có thể được kèm theo và được hát. Lời hát được xem là phần quan trọng trong âm nhạc thế tục. Những nhạc sĩ như Josquin des Prez viết nhạc thiêng liêng và thế tục. Ông đã sáng tác 86 tác phẩm thế tục rất thành công. Âm nhạc thế tục cũng được hỗ trợ bởi sự hình thành của văn học trong thời cai trị của Charlemagne đó bao gồm một bộ sưu tập các bài hát thế tục và bán thế tục. Bây giờ chúng ta cùng nghe một ca khúc thuộc thể loại nhạc thế tục nhé.
Âm nhạc nhà thờ: Âm nhạc nhà thờ là âm nhạc viết cho các bản ca trong nhà thờ, hoặc bất kỳ thiết lập âm nhạc phục vụ của Giáo Hội, hoặc tập âm nhạc để bày tỏ lòng thành cũng như cầu nguyện có tính chất thiêng liêng, như một thánh thi, là sự phát triển tự nhiên của thể loại bình ca, Dạng nhạc phức điệu 2 bè đơn giản cuối thời Trung cổ được mở rộng thành phức điệu 4 bè, trong đó mỗi bè đều quan trọng như nhau. Hình thức mới này được gọi là motet. Trái với thời Trung cổ, trong giai đoạn này âm nhạc được chú trọng hơn lời ca. Josquin des Prez và Giovanni Palestrina là hai nhạc sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ Phục hưng về thể loại motet. Giai điệu âm nhạc nhà thờ thời kì Phục Hưng bắt đầu được trau chuốc trở nên hoa mỹ hơn, các nhạc sĩ bắt đầu thích thể hiện phong cách hơn là sự truyền bá tôn giáo đây là sự bắt nguồn cho sự hài hoà giữa lời ca và giai điệu. Từ đầu thế kỷ 16, nhà thờ Tân giáo tách khỏi nhà thờ Công giáo kéo theo những thay đổi mạnh mẽ về mọi mặt trong đời sống xã hội. Martin Luther muốn tất cả các tín đồ của ông cùng tham gia vào hoạt động âm nhạc. Vì vậy, trong những nhà thờ Tân giáo, người ta sáng tác những bài thánh ca cho mọi người cùng hát, chứ không chỉ dành cho dàn hợp xướng. Phong cách hợp xướng mới này là nền tảng cho những bài thánh ca ngày nay. Những bài thánh ca được viết cho người hát, nhưng 200 năm sau, Bach đã ứng dụng hình thức này vào những tiểu phẩm cho đàn organ. Có thể nói âm nhạc nhà thờ Thiên Chúa giáo thế kỷ 16 phát triển trên nền tảng của bình ca, còn âm nhạc nhà thờ Tân giáo thế kỷ 17 – 18 phát triển từ thánh ca nhiều bè. Nhà soạn nhạc nhiều tài nhất đầu thời Phục hưng là Guillaume Dufay. Ông đã viết các motet có sự phức tạp gần với phong cách của ars nova cũng như các chanson theo một kiểu mới hơn và nhẹ nhàng hơn. Nhà soạn nhạc nổi bật về thể loại chanson là Gilles Binchois. Ảnh hưởng của những nhà soạn nhạc Bourgogne đến giữa thế kỉ 15 đã suy giảm.
Các nhạc cụ ngày nay chúng ta đang sử dụng như organ, guitar bắt nguồn từ thời kì Phục Hưng phát triển quá từng giai đoạn và có hình dáng hiện đại như bây giờ.
2. Các trường phái âm nhạc thời kỳ Phục Hưng
Trường phái Bourgogne
Ngược dòng sự phức tạp của phong cách Ars Nova, phần lớn các nhà soạn nhạc đầu thế kỉ 15 đều ưa thích một phong cách âm nhạc đơn giản hơn với những giai điệu chảy trôi êm ả, những hòa âm nghe êm tai hơn và ít nhấn mạnh vào đối âm hơn. Nhà soạn nhạc Anh John Dunstable (1390-1453) là người đầu tiên đẩy mạnh việc sáng tác âm nhạc theo phong cách đơn giản hơn. Những nét thanh nhã trong phong cách của ông sớm được các nhà soạn nhạc châu Âu khác tiếp thu, đặc biệt là những người phục vụ các công tước Bourgogne ở miền Đông Bắc Pháp. Triều đình Bourgogne giai đoạn đó cực kỳ có thế lực và nó đã thu hút các nhà soạn nhạc và nghệ sĩ trên khắp châu Âu. Những nhà soạn nhạc Bourgogne này nổi tiếng bởi những chanson, trong đó một bè giọng thể hiện giai điệu chính và một hoặc hai bè khác đảm nhiệm vai trò phần đệm. Những người Bourgogne cũng phát triển thông lệ sáng tác mass với các phần như một tổng thể hòa nhập mà Machaut đã bắt đầu từ thời Trung cổ. Kết quả là mass trở thành một thể loại bất hủ, về tầm vóc có thể sánh với các giao hưởng thế kỉ 19. Các mass sử dụng một cantus firmus (bè chính, bè cao nhất) thường được dựa trên những chanson hay những giai điệu thế tục khác hơn là dựa trên thánh ca Gregory. Thực tế này phản ánh ảnh hưởng gia tăng của mối quan tâm đến mảng thế tục trong thời Phục Hưng. Trong viết nhạc đối âm, các nhà soạn nhạc thời Phục Hưng dựa nhiều vào kỹ thuật mô phỏng, sự trình bày liên tiếp, gần gụi về khoảng cách trong một hay nhiều bè giọng có cùng ý đồ giai điệu. Kỹ thuật mô phỏng đã được sử dụng từ cuối thế kỉ 14 nhưng trong thời Phục Hưng thì nó trở thành một yếu tố cấu trúc chính trong âm nhạc. Nếu một bè giọng bắt chước một bè giọng khác một cách nhất quán trong một khoảng thời gian tương đối dài, hai bè giọng sẽ hình thành nên một canon. Trong âm nhạc thời Phục Hưng, các cặp bè giọng chuyển dịch trong một canon suốt cả tác phẩm hay một phần tác phẩm trong khi những mô phỏng ngắn hơn diễn ra trong những bè giọng khác. Nhà soạn nhạc quan trọng nhất của trường phái Bourgogne, trường phái thống trị âm nhạc châu Âu vào đầu thời kỳ Phục Hưng, là Guillaume Dufay (1397-1474). Ông đã viết các motet có sự phức tạp gần với phong cách của Ars Nova cũng như các chanson theo một kiểu mới hơn và nhẹ nhàng hơn. Các chanson của Dufay bộc lộ tính trữ tình ngọt ngào du dương chưa từng có trước thời đại mình. Bằng sự tinh thông trong hình thức âm nhạc quy mô lớn, Dufay đã tạo sân khấu cho các thế hệ các nhà soạn nhạc tiếp theo ở thời Phục Hưng. Ở thể loại chanson, tác giả nổi bật nhất là Gilles Binchois (1400-1460).Trường phái Người Hà Lan
Ảnh hưởng của những nhà soạn nhạc Bourgogne đến giữa thế kỉ 15 đã suy giảm. Từ khoảng năm 1450 đến khoảng năm 1550, hầu hết các chức vụ về âm nhạc quan trọng ở châu Âu do những nhà soạn nhạc sinh vào thời đó ở Hà Lan, Bỉ và những vùng của Pháp kề cận đó nắm giữ. Các nhà soạn nhạc trường phái Pháp-Flemish này thường được gọi là Người Hà Lan theo tên vùng đất quê hương họ. Nói chung những Người Hà Lan ưa thích kiểu âm thanh đồng nhất hơn, chẳng hạn như do một hợp xướng không nhạc đệm tạo ra. Kết cấu âm nhạc chiếm ưu thế của họ là đối âm với mọi bè giọng có tầm quan trọng ngang bằng. Các đặc trưng âm nhạc này tương phản với kiểu âm thanh Bourgogne điển hình, trong đó mỗi bè giọng có màu sắc riêng (chẳng hạn như một giọng solo được hai nhạc cụ solo khác đệm cho) và trong đó một giọng sẽ trội hơn các giọng khác. Những Người Hà Lan tiếp tục truyền thống Bourgogne về sáng tác chanson, motet và mass. Mặc dù nhiều tác phẩm mass xuất sắc được sáng tác vào cuối thế kỉ 15 và đầu thế kỉ 16 nhưng thể loại mass khi đó không tạo ra một sự thách thức như nó đã từng làm đối với những nhà soạn nhạc Bourgogne. Các kỹ thuật cơ bản để thống nhất một bản mass toàn vẹn đã trở thành sở hữu chung của mọi nhà soạn nhạc. Lời ca của mass, vẫn luôn giữ nguyên, khơi gợi ít kiểu phổ nhạc hơn. Phần lớn vì những lý do này, thể loại motet trở thành phương tiện biểu lộ để thử nghiệm. Lời ca, rút từ mọi phần của Kinh Thánh cũng như từ các nguồn khác, gợi ra cho các nhà soạn nhạc nhiều ý tưởng âm nhạc mang tính minh họa. Những Người Hà Lan hàng đầu là Johannes Ockeghem (1425-1497), Jacob Obrecht (1458-1505), Josquin des Prez (1455-1521) và Orlando di Lasso (1530-1594). Chanson của thế kỉ 16 đã xa rời hẳn vẻ hấp dẫn đơn giản của các bài tình ca Bourgogne. Chúng có xu hướng được đối âm tỉ mỉ hoặc là được rót đầy bằng các ngụ ý âm nhạc dí dỏm ám chỉ tiếng gọi chim, tiếng rao của những người bán dạo ngoài phố và những âm thanh tương tự. Các chanson của những nhà soạn nhạc người Paris như Claudin de Sermisy (1490-1562) và Clément Janequin (1485-1558) minh họa cho phong cách về sau. Từ khoảng năm 1530 đến năm 1600, madrigal là thể loại thanh nhạc thế tục phổ biến nhất ở châu Âu. Trong một tác phẩm phổ thơ thường được viết cho bốn hoặc năm giọng hát và ít khi có nhạc đệm, nhà soạn nhạc cố gắng diễn tả cảm xúc mãnh liệt chứa đựng trong từng dòng thơ và đôi khi là từng từ. Luca Marenzio (1553-1599) là một trong những tác giả madrigal Ý nổi bật nhất. Jacques Arcadelt (1500-1568) là người Pháp nhưng đã viết các madrigal ở thành phố Florence nước Ý. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông ở thể loại này là Il bianco e dolce cigno (Thiên nga trắng dịu dàng). Nước Anh cũng có nhiều tác giả madrigal nổi tiếng như Thomas Morley (1558-1602), Francis Pilkington (1570-1638), William Byrd (1543-1623), Orlando Gibbons (1583-1625) và Thomas Weelkes (1576-1623). Sau khi trường phái Bourgogne suy tàn, nước Ý trở thành trung tâm của âm nhạc châu Âu thời Phục Hưng và là nơi tiếp tục các cách tân với trường phái Venice và trường phái Roma (có phần bảo thủ hơn) với Giovanni da Palestrina (1525-1594) là đại diện tiêu biểu nhất. Âm nhạc của ông điển hình cho dòng phức điệu hợp xướng ngang bằng, đều là tiêu chuẩn chính của phong cách âm nhạc Phục Hưng. Các sáng tác hợp xướng phức điệu của trường phái Venice cuối thế kỉ 16 nằm trong số các sự kiện âm nhạc nổi tiếng nhất châu Âu và có ảnh hưởng lớn lên hoạt động âm nhạc của các nước khác. Giovanni Gabrieli (1557-1612) là nhà soạn nhạc tiêu biểu nhất của trường phái Venice. Các cách tân của trường phái Venice cùng với sự xuất hiện của thể loại opera ở Florence giai đoạn đó đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Phục Hưng và mở ra thời kỳ Baroque trong âm nhạc. Âm nhạc thời kỳ Phục hưng có tiếp thu di sản thời kỳ Trung cổ, nhưng về nội dung tư tưởng nó chống đối lại hệ tư tưởng phong kiến và nhà thờ thống trị trong cả nghìn năm đen tối của thời kỳ trung cổ ấy. Nghệ thuật Phục hưng ca ngợi lòng hy sinh, đề cao chủ nghĩa nhân đạo và biểu hiện tư tưởng tiến bộ của tầng lớp tư tưởng thành thị đang thời son trẻ. Để diễn đạt được nội dung tư tưởng ấy, nghệ thuật phục hưng phục hồi lại cái đẹp toàn mỹ của thời kỳ hưng thịnh nhất trong thời kỳ cổ đại.Nguồn: adammuzic.vn, hoiamnhachanoi.org
GIÁO HỘI THỜI KỲ PHỤC HƯNG
I. NỘI DUNG
1. Bối Cảnh Lịch Sử
1.2 Bầu Khí Canh Tân Trong Giáo Hội
1.3. Cải Cách Tin Lành
2. Bối Cảnh Xã Hội 2.1. Bước Đầu Những Khám Phá
2.2. Những Biến Chuyển Trọng Đại
3. Bối Cảnh Văn Hóa
3.1. Điều Kiện Lịch Sử
3.2. Những thành tựu chính
Về Văn Học
Nghệ Thuật
Triết Học
Khoa Học
4. Trào Lưu Tư Tưởng
II. ẢNH HƯỞNG
1. Tiêu cực:
2. Tích cực
III. KẾT LUẬN
1.1. Giai Đoạn Chuyển Mình
Sau thời kỳ phát triển rực rở, độc đáo và toàn diện của triết học cổ đại Hy-Lạp là sự tiếp nối của lịch sử triết học Châu Aâu trong màn đêm dài của thời trung cổ, sở dĩ gọi là màng đêm vì trước nó là thời rực rở của ánh mặt trời tư tưởng, là thế kỷ vàng trong lịch sử văn minh nhân loại; Có thể nói, triết học thời trung cổ là sự bành trướng của chế độ phong kiến, nhà thờ; còn tôn giáo thì giữ vai trò thống trị xã hội trên tất cả các mặt: tinh thần, chính trị, kinh tế… Hệ tư tưởng thống trị là kiểu bốc lột nông nô của phong kiến; thần học giáo điều mang tính kinh viện được dạy trong các trường học, người ta nói đây là nền triết học chủ nghĩa hình thức không thừa nhận bất kỳ cái gì mới, nó kiềm hãm sự phát triển của khoa học; Nói chung, đây là thứ triết học chịu sự thống trị của hệ tư tưởng tôn giáo, là “đày tớ của thần học”. Với Giáo Hội công giáo, thì từ thế kỷ 12-13 là thế kỷ đầy kết quả do sự xuất hiện của nhiều dòng tu, nhưng đến 1300 trở đi thì là thời suy thoái, bắt đầu thời giáo triều Avignon với sự có mặt của hai, thậm chí ba Giáo Hoàng cùng một lúc làm ảnh hưởng và uy tín của Giáo Hội bị sút kém dẫn đến việc khiến một số người công giáo đặt lại vấn đề cho đức tin, và có khi từ chối thẩm quyền của Giáo Hội, sự chỉ trích Giáo Hội và việc nổi loạn chống giới thẩm quyền ngày càng gia tăng; Nhất là sự suy thoái của thần học kinh viện, các thần học gia không còn nghiên cứu Kinh Thánh và các Giáo Phụ nữa, mà đã dành thời giờ để tranh luận một cách vô bổ, tỉ như: “bao nhiêu Thiên Thần có thể nhảy múa trên đầu một cây kim”; Rồi vì ảnh hưởng chính trị, các Giáo Hoàng buộc phải ký hiệp ước với nhiều quốc gia, nên nhiều nhà cầm quyền thế tục cũng trở thành Giám Mục, hay Tu Viện Trưởng, có vị còn mua cả hai đến ba chức vụ cùng một lúc, và tất nhiên là họ chẳng màng gì đến việc chăm sóc giáo dân; Hàng Linh Mục và Phó Tế cũng trở nên tồi tệ và thói nát khắp nơi; Còn giáo dân thì chẳng màng gì đến việc đạo đức ngoài việc thích đi hành hương hoặc cúng tiền để được ân xá.
KIẾN TRÚC THỜI KỲ PHỤC HƯNG
1. Khởi nguồn của kiến trúc Phục Hưng
Sảnh hình tròn trong kiến trúc Phục hưng
Kiến trúc thời Phục Hưng mang đậm sự ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa. Những hiểu biết về con người, tôn vinh vai trò và vị trí của con người được khám phá và phát triển mạnh trong thời gian này. Thời kỳ này con người được xem như thần thánh, là những đứa con của đấng sáng tạo, của Chúa. Từ những năm đầu của thế kỷ 15, nhiều nhà kiến trúc nổi tiếng đã bắt đầu xuất hiện, tên tuổi của họ vẫn còn lưu giữ đến ngày nay như: Leonardo da Vinci, Raphael, Michenlangelo…2. Các giai đoạn phát triển của kiến trúc thời kỳ Phục Hưng
Kiến trúc thời kỳ Phục Hưng là kiến trúc của thời kỳ giữa thế kỷ 14 và đầu 17 đầu ở các vùng khác nhau của châu Âu, thể hiện một sự hồi sinh và phát triển của một số yếu tố của tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ đại và văn hóa vật chất có ý thức. Phong cách, kiến trúc Phục hưng theo kiến trúc Gothic và được kế tục bởi kiến trúc Baroque. Phát triển đầu tiên tại Florence, với Filippo Brunelleschi là một trong những sáng tạo của mình, phong cách thời Phục hưng nhanh chóng lan sang các thành phố khác của Ý. Các phong cách được chuyển đến Pháp, Đức, Anh, Nga và các bộ phận khác của châu Âu vào những thời điểm khác nhau và với mức độ tác động khác nhau. Phong cách Phục hưng nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỷ lệ hình học và sự hài hòa của các cấu trúc như đã được thể hiện trong kiến trúc cổ điển và đặc biệt là kiến trúc La Mã cổ đại, qua đó nó được gìn giữ lại. Sự sắp xếp hợp lý của cột trụ, lanh tô, cũng như việc sử dụng các mái vòm bán nguyệt, bán cầu, các hốc tường và aedicules để thay thế cho các hệ thống có nhiều phức tạp hơn của các tòa nhà trung cổ.
Mặt tiền nhà hát lớn Semper, Dresden, Đức
Đài phun nước Trevi ở Rome
Các giai đoạn chính Các nhà sử học thường chia thời kỳ Phục hưng ở Ý thành ba giai đoạn. Trong khi đó, các nhà sử học nghệ thuật có thể nói về một "Early Renaissance" thời gian, trong đó họ bao gồm phát triển trong hội họa và điêu khắc từ thế kỷ 14, điều này thường không phải là trường hợp trong lịch sử kiến trúc. Các điều kiện kinh tế ảm đạm của những năm cuối thế kỷ 14 đã không tạo ra các tòa nhà được coi là một phần của thời kỳ Phục hưng. Kết quả là, từ "Renaissance" giữa các nhà sử kiến trúc thường được áp dụng cho giai đoạn 1400 đến khoảng 1525, sau đó các trường hợp còn lại của Renaissances không phải người Ý. Các nhà sử học thường sử dụng các mô tả sau đây: · Tiền kỳ Phục hưng (khoảng 1400-1500); thường gọi là Quattrocento. · Thịnh kỳ Phục hưng (khoảng 1500-1525) · Hậu kỳ Phục hưng (thói quen) (khoảng 1520-1600)
- Quattrocento (1400-1500) là thời kỳ mà các khái niệm và nguyên tắc bắt đầu hình thành. Các nghiên cứu về thời cổ đại đã dẫn đến việc áp dụng các cấu trúc và chi tiết trang trí La Mã. Không gian, một yếu tố của kiến trúc, được tổ chức lại theo tỷ lệ logic và hình học, chứ không phải được tạo ra bởi trực giác như trong các tòa nhà thời Trung Cổ. Kiến trúc sư Filippo Brunelleschi là người tiên phong phát triển kiến trúc Phục hưng. Yếu tố quan trọng nhất mà ông nhấn mạnh là trật tự rõ ràng. Ông nhận thấy, kiến trúc cổ La Mã có tính chất toán học, thứ mà kiến trúc Gothic hoàn toàn không có.
- Trong thời kỳ Phục hưng đỉnh cao (1500-1525) các khái niệm cổ điển được phát triển và sử dụng thuần thục hơn. Kiến trúc sư tiêu biểu nhất cho giai đoạn này là Bramante (1444–1514), người mở rộng và áp dụng kiến trúc cổ điển vào các tòa nhà đương thời. Phong cách thiết kế của Bramante có ảnh hưởng sâu rộng đến kiến trúc Ý trong thế kỷ 16. Công trình thời này bắt đầu được trang trí cầu kỳ hơn.
Tòa thánh Vatican - Công trình kiến trúc nổi tiếng của Bramante
- Những nghệ sỹ trường phái Kiểu cách (1520-1600) đã dùng các yếu tố kiến trúc một cách sáng tạo và phóng khoáng hơn. Michelangelo là kiến trúc sư nổi tiếng nhất của trường phái kiểu cách. Ông là người phát minh ra cách đặt cột cao nhiều tầng trước mặt tiền nhà.
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Vatican Năm 1546, Michelangelo được chỉ định làm kiến trúc sư Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại Vatican. Đây là công trình kiến trúc quan trọng nhất của ông, và cũng là công trình kiến trúc quan trọng nhất đối với Giáo hội Công giáo. Ông đã thiết kế mái vòm nổi tiếng của nó
Viện bảo tàng Vatican trong Thành Vatican
Nhà thờ St.Peter (Basilica di San Pietro)
Đài phun nước Trevi là một đài phun nước ở quận Trevi ở Roma, Italia, do kiến trúc sư Ý Nicola Salvi thiết kế và hoàn thiện bởi Pietro Bracci
Trước thời kỳ phục hưng là thời hoàng kim của phong cách kiến trúc Gothic với đặc điểm chính là những chóp nhọn hướng lên trời mang ý nghĩa tâm linh như thành kính đối với thần linh. Đến thời kỳ phục hưng thì kiến trúc Gothic dần bị tẩy chay do con người nhận ra quyền năng của họ có thể sánh ngang với thần linh, và bắt đầu hồi sinh cho kiến trúc La Mã, Hy Lạp bởi những kiến trúc này thể hiện sự hùng vĩ, mạnh mẽ mà con người thời này hướng đến. Tuy nhiên nguyên tắc lớn nhất trong kiến trúc Phục hưng là tôn trọng nét cổ điển, chuẩn mực của nghệ thuật thời cổ đại. Kiến trúc Phục hưng là sự kết hợp hài hòa của các nguyên tắc toán học, vật lý học liên quan đến sự tổ hợp, tính quy luật và sự ổn đinh. Thời kỳ này con người đã biết đến sức mạnh của mình qua các cuộc chiến tranh quân sự, những phát minh khoa học hiện đại do đó thông qua việc vận dụng các môn khoa học của toán như hình học, tỉ lệ học mà xác định tính chính xác của công trình. Không như phong cách kiến trúc trước đó là Baroque hay Gothic chỉ tôn vinh thần thánh, thời phục hưng tiếp tục phát triển những tỷ lệ vàng mà nhà toán học, hình học Pythagore đã đưa ra 1:1, 1:2, 2:3, 3:4 để kiến tạo vẻ đẹp cho không gian. Trong phong cách kiến trúc phục hưng, dễ dàng nhận ra các công trình này hầu hết đều mang yếu tố hình học là hình tròn hay hình vuông, thời kỳ này con người cũng dựa theo hiểu biết của mình để xác định tỉ lệ vàng của con người, theo đó những ai có được tỉ lệ vàng này sẽ là chuẩn mực nét đẹp của xã hội. Kiến trúc phục hưng mang ý nghĩa làm sống lại phong cách kiến trúc thời kỳ La Mã và Hy Lạp cổ đại, tuy nhiên hơn 1000 năm đã trôi qua tất cả mọi mặt từ kinh tế, chính trị hay văn hóa xã hội đều đã có sự thay đổi khổng lồ, thế nên sự phục hồi này không phải là “bê nguyên xi” kiến trúc cổ đại vào mà là sự vận dụng phát triển sáng tạo sao cho phù hợp nhất với văn hóa xã hội mỗi vùng, miền, quốc gia. Những nét kiến trúc của La Mã được giữ nguyên trong kiến trúc phục hưng là: Vòm cuốn, 5 thức cột. Những đặc điểm chỉnh mang nét riêng của phong cách phục hưng là: - Sử dụng các thành phần cổ điển trong sáng tác - Sử dụng các hình thức vòm ovan đồ sộ mang hơi thở của Baroque - Sự đa dạng về các loại hình kiến trúc tuy nhiên chủ yếu là: nhà thờ, lâu đài và biệt thự, nhà thép tiền chế.. những công trình có kích thước lớn. Thời kỳ cổ đại, những lâu đài do các vua chúa xây nên mang nặng chất phòng thủ, do thời kỳ này chiến tranh nổ ra liên miên nhằm tranh giành lãnh thổ. Thế nhưng những lâu đài Phục hưng lại mang đậm chất trang trí, thể hiện sự xa hoa, giàu có của tầng lớp quý tộc, vua chúa thời bấy giờ, thường có dạng chữ nhật, lối vào chính dẫn vào một sân trong lấy ánh sáng ở trên xuống, hành lang được trang trí khảm đá. Ở một số công trình nhiều tầng thì còn sử dụng kết hợp tầng 1 dùng thức cột Doric, tầng 2 dùng cột Ionic còn tầng 3 dùng cột Corinth Trong khi đó các nhà thờ thời phục hưng không còn lưu giữ những chóp nhọn như thời gothic mà chuyển sang các mái vòm lớn với rất nhiều những hình ảnh tranh khảm nạm được trưng bày trên tường và bên trong nội thất. Những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất của thời này còn lưu giữ đến ngày nay như: thánh đường Santa Maria de Fario, nhà thờ St Peter
Mặt tiền
Cột và trụ Các thức cột La Mã được sử dụng: Tuscan, Doric, Ionic, Corinthian và Composite. Các hình thức này không những là một cấu trúc, chống đỡ mái vòm hoặc đầu dầm, hoặc hoàn toàn dùng để trang trí, được đặt áp sát các bức tường dưới hình dạng những trụ ốp tường. Trong thời kỳ Phục hưng, kiến trúc sư có mục đích sử dụng cột, pilasters, và entablatures như một hệ thống tích hợp. Một trong những công trình đầu tiên sử dụng pilasters như một hệ thống tích hợp là The Old Sacristy (1421-1440) của Brunelleschi.
Cột trụ thời kì phục hưng
Cung Cung là nửa vòng tròn, hoặc (trong phong cách Mannerist) là một phân đoạn. Arches thường được sử dụng trong hành lan lối đi trong nhà, được tựa trên các trụ cột hoặc đầu mũ cột. Có thể là một thành phần của entablature giữa mũ cột và chân vòng cung. Alberti là một trong những người đầu tiên sử dụng kiến trúc trên một quy mô hoành tráng tại công trình St. Andrea ở Mantua.Vòm
Vòm cong không có sườn. Là một nửa vòng tròn, hoặc một phân đoạn đặt trên một mặt vuông, không giống như các vòm Gothic thường có hình chữ nhật. Vòm cong được trở lại trong thuật ngữ kiến trúc tại công trình St .Andrea ở Mantua.Domes
Những mái vòm được sử dụng thường xuyên, một mặt là một cấu trúc to lớn có thể nhìn thấy từ bên ngoài, còn được coi như một giải pháp cho phần mái trong không gian nhỏ hơn nơi chỉ có thể nhìn thấy bên trong. Sau thành công của các mái vòm trong thiết kế của Brunelleschi cho Basilica di Santa Maria del Fiore và sử dụng trong đồ án Bramante cho Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô (1506) ở Rome, mái vòm đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong kiến trúc nhà thờ và sau đó ngay cả đối với kiến trúc thế tục, như Villa Rotonda Palladio.
Mái vòm Tòa thánh Vatican
Trần nhà Mái nhà được tương thích với trần nhà bằng phẳng hoặc có phân ô. Không còn bỏ ngỏ như trong kiến trúc thời Trung Cổ. Thường được sơn phết hoặc trang trí công phu.Cửa
Cửa ra vào thường có dầm đỡ vuông. Có thể được đặt trong một cung hoặc được bao phủ bằng một hình tam giác tam giác hoặc phần trán tường. Lối vào mà không có cửa thường có dạng cong và được trang trí với quy mô rộng lớnCửa sổ
Cửa sổ có thể được ghép nối và đặt trong một vòm bán nguyệt. Có thể có các dầm đỡ vuông và tam giác hoặc một phần trán tường, đó là cách thường được sử dụng phổ biến. Điển hình trong lĩnh vực này là công trình Palazzo Farnese ở Rome, bắt đầu từ năm 1517. Trong giai đoạn Mannerist các cung "Palladian" đã được dung nhiều, thường sử dụng một motif của một cao nửa vòng tròn mở hai bên có hai đầu lỗ vuông thấp hơn. Cửa sổ được sử dụng để đem ánh sáng vào tòa nhà. Kính màu thường được sử dụng, mặc dù đôi khi hiện nay, không phải là một tiêu chí.
Cửa và cửa sổ trong kiến trúc thời phục hưng
Tường Bức tường bên ngoài thường được xây bằng gạch, tô trát, ốp đá thành khối thẳng. Các góc của tòa nhà thường được nhấn mạnh bằng cách trát vữa nhám bắt góc. Tầng hầm và tầng trệt thường tô nhám, như tại công trình Palazzo Medici Riccardi (1444-1460) ở Florence. Bức tường nội bộ được thông suốt và dán lớp mặt vôi. Để không gian được trang trọng hơn, bề mặt bên trong được trang trí với các bức bích họa.
Chi tiết
Các chi tiết trang trí được chạm khắc với độ chính xác tuyệt vời. Nghiên cứu, nắm vững các chi tiết của thời La Mã cổ đại là một trong những khía cạnh quan trọng của lý thuyết Phục hưng. Có các yêu cầu khác nhau cho mỗi bộ phận khác nhau của từng chi tiết. Một số kiến trúc sư còn chặt chẽ hơn trong việc sử dụng các chi tiết cổ điển hơn những người khác, nhưng cũng là một giải pháp tốt của sự đổi mới trong việc xữ lý các vấn đề kiến trúc, đặc biệt là ở các góc công trình. Gờ chỉ phào làm nổi bật xung quanh cửa ra vào và cửa sổ chứ không phải bị lõm như trong kiến trúc Gothic. Những bức tượng có thể được đặt trong các hốc tường hoặc đặt trên các bệ cột. Việc này chưa được hoàn toàn trong giai đoạn kiến trúc thời Trung cổ.
Lâu đài Blois (Château de Blois)
Kiến trúc phục hưng trong nhà thờ với hệ thống mái vòm và trang trí tráng lệ