Nhận thức của sinh viên về cộng đồng LGBT

-->

MỞ ĐẦU1 . Lý do chọn đề tàiCon người là một thực thể tự nhiên và xã hội hoàn thiện và phức tạp nhất.Trong khi tìm đường lên các vì sao, loài người đồng thời quay lại và tìm hiểuchính mình. Và công việc này cũng không kém phần khó khăn so với cácnghiên cứu khoa học về vũ trụ, kỹ thuật và tự nhiên. Tiến bộ khoa học gầnđây nhất - việc giải mã và công bố bản đồ gen đã mở ra cánh cửa cho việcđem lại những hiểu biết mới về con người. Đặc biệt là đống góp cho việcchữa trị những căn bệnh nan y. Tuy nhiên, với tư cách vừa là nhà nghiên cứu,vừa là đối tượng nghiên cứu, con người đôi khi không thể tìm ra câu trả lờicho những câu đố về bản thân mình.Hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một trong những vấn đề mà loàingười hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như nguyênnhân và giải pháp cho nó. Xét về mặt y học, các nhà khoa học cho rằng đây cóthể được coi như một loại bệnh tâm thần. Họ xếp đồng tính luyến ái vào nhómbệnh về lệch lạc đối tượng. Nhưng nguyên nhân dẫn đến nó thì không đơnthuần chỉ là nằm ở khía cạnh bệnh lý mà còn ở khía cạnh tâm lý. Có thể đó làdo cách giáo dục của gia đình không phù hợp dẫn dến sự phát triển lệch lạc từkhi còn nhỏ hoặc do người đồng tính lợi dụng. Theo quan điểm của nhiềungười, đồng tính luyến ái là một hiện tượng lệch chuẩn. Đây là một lối sốngkhông có lợi cho xã hội cả về đạo đức cũng như phát triển. Bởi những giađình của người đồng tính luyến ái sẽ khó có thể thực hiện một chức năng quantrọng - duy trì nòi giống để đảm bảo sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên saumột thời gian dài điều trị liên tục thất bại, các nhà khoa học đã nhận ra làmình đã sai lầm. Nên kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không bị coi là bệnhnữa, không gì có thể chữa trị được, có chăng là hỗ trợ tâm lý để giúp họ yêuđời hơn.1Trong những năm gần đây, trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồngtính luyến ái phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng.Đây đó đã xuất hiện những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền đượckết hôn cho những người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam, từ sau thờiđiểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hóa tư tưởng nước ngoài đãxâm nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lốisống và quan niệm của người dân.Tầng lớp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là thanh niên. Đâylà thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên quanniệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻthường chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi nhữngđiều mới lạ chưa rõ tích cực hay tiêu cực.Hiện tượng đồng tính luyến ái ở Việt Nam được quan niệm như một lốisống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác với những giá trị truyềnthống, nền tảng văn hóa của dân tộc. Trong thời gian gần đây, theo dõi trêncác phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta hoàn toàn có thể đọc thấynhững bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái, chỉ ra những trường hợpcoi đồng tính luyến ái như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bịcuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính luyếnái còn phát triển trở thành một tệ nạn xã hội – đặc biệt là đồng tính luyến áinam. Chính vì thế, dư luận xã hội thường không đồng tình và coi đây là mộtlối sống lệch lạc với chuẩn xã hội. Thêm nữa, những người đồng tính luyến áinằm trong top đầu những người có nguy cơ hiễm HIV cao nhất. Bởi vì họthường xuyên thay đổi bạn tình và quan hệ tình dục không có biện pháp antoàn.Sinh viên là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao, đồng thời đây cũng làlớp người kế cận của đất nước. Do vậy đòi hỏi họ phải luôn có những hiểubiết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh2mình. Thêm nữa, họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễbị ảnh hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến áicó thể xảy ra ở bất kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế sinh viên cần cónhững hiểu biết nhất định về nó để có thể có những cái nhìn và thái độ đúngđắn hơn với hiện tượng đồng tính luyến ái này để tránh những cái nhìn kì thịvà qua đó giúp những người đồng tính có thêm động lực để sống và làm việc.Xuất phát từ nhận định như vậy, chúng tôi đã chọn đề tài “Nhận thức của sinhviên Khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục về hiện tượng đồng tính luyếnái” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp cho mình.2. Mục đích nghiên cứuNhằm tìm hiểu nhận thức của nhóm sinh viên về bản chất cũng như biểuhiện, nguyên nhân và đối tượng của hiện tượng đồng tính luyến áiNhằm phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thái độvà hành vi của sinh viên.3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu3.1 Đối tượng nghiên cứuNhận thức về hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên khoa giáo dục,Học viện quản lý giáo dục.3.2 Khách thể nghiên cứuSinh viên Khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục.4. Nhiệm vụ nghiên cứu- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài+ Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới và ở Việt Nam+ Hệ thống các khái niệm- Nghiên cứu thực trạng nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính.- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nhận thức của sinh viên.- Tìm hiểu thái độ và quan điểm của sinh viên đối với người đồng tính.35. Phạm vi nghiên cứu- Nghiên cứu trên 100 sinh viên khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục.- Nghiên cứu từ tháng 03 năm 2012 đến tháng 05 năm 2012.6. Phương pháp nghiên cứu- Phương pháp nghiên cứu lý luận.- Phương pháp quan sát.- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.- Phương pháp phỏng vấn.- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia.4Chương 1CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU1.1. Tổng quan về nghiên cứu hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giớivà ở Việt NamHiện tượng đồng tính luyến ái đã xuất hiện rất lâu trên thế giới cùngvới sự phát triển của con người. Như ở Ấn Độ, vào độ tuổi vị thành niên,những chàng trai phải trở thành một giới thứ ba, tức là yêu và sống chung vớimột người cùng giới tính như một dạng hôn nhân thử nghiệm. Sau giai đoạnđó, họ lại yêu và lấy một người phụ nữ bình thường khác. Hoặc ở châu Phi, cótrường hợp một người nam hay một người nữ có thể yêu một người cùng giớivới mình trong một thời gian. Điều này là do yếu tố văn hóa của bộ tộc chiphối. Tuy nhiên, hiện tượng chỉ dừng lại ở mức tồn tại trong một thời điểmhay một nền văn hóa riêng biệt chứ không mang tính công khai hay chínhthức. Bởi vì trong nhận thức của mỗi người, đồng tính luyến ái vẫn được coilà một hiện tượng bất bình thường.Trên thế giới, những đề tài khoa học, những nghiên cứu khoa học vềđồng tính luyến ái, hay nhận thức về đồng tính luyến ái đang có xu hướngtăng nhanh, vì hiện tượng này, dù có kết quả thế nào vẫn không thể làm hàilòng hay thỏa mãn hầu hết mọi người. Những nghiên cứu khoa học từ giữathế kỉ XX cho thấy, đồng tính luyến ái đã không còn phải là một loại bệnh.Đó được nhìn nhận như một giới tính thực thụ. Qua những công trình nghiêncứu, qua thời gian, đồng tính luyến ái hiện nay đang dần được xã hội có cáinhìn thiện cảm hơn và phần nào bớt đi cái nhìn kì thị.Những công trình nghiên cứu nổi bật của thế giới về đồng tính luyếnái phải kể đến những công trinh nghiên cứu như: Di truyền trong sức khỏe vàrối loạn tinh thần của E.J Kalhan, ông đã tiến hành nghiên cứu trên những cặpsinh đôi hợp tử và song hợp tử đã cho thấy “Trong mọi trường hợp sinh đôiđơn hợp tử, nếu một đứa trẻ đồng tính, thì đứa kia cũng vậy, điều này không5xuất hiện ở những cặp sinh đôi song hợp tử ”. Những điều này cho thấy, khảnăng di truyền và bẩm sinh từ bé của những người đồng tính là rất lớn.Hoặc đề tài nghiên cứu khoa học Violence agains lesbians and gaymencủa David Comstock, đây là một nghiên cứu tập trung về những vấn đề màngười đồng tính luyến ái gặp phải trong cuộc sống. Tác giả đưa ra những sốliệu về tệ nạn sử dụng bạo lực cũng như phân biệt đối xử đối với những ngườiđồng tính luyến ái tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nghiên cứu năm 1992.Cuốn sách của Scott Coltrane and Randall Collins tên Socialogy ofmarriage and the family – NXB Wadsworth/Thomson Learning 2001, đây làcuốn sách xã hội học về hôn nhân và gia đình đã đề cập rất nhiều đến vấn đềvề đời sống hôn nhân cũng như giới tính. Trong đó, đồng tính luyến ái cũngđược đề cập. Chủ yếu nghiên cứu làm sáng tỏ sự xuất hiện và phát triển củahiện tượng này trong đời sống cá nhân, cách nhìn nhận của cộng đồng về nó.Về phía công trình nghiên cứu của các nhà Y học trên thế giới, theotiến sĩ Cladirmin Sakhizanhia cho rằng: có thể đồng tính luyến ái xuất hiệnnhư là một trong những biểu hiện (triệu chứng) của bệnh tâm thần phân liệtcũng như những bệnh thần kinh nội tạng mà các bệnh nhân có xu hướng thựchiện các hành động khác nhau chống lại xã hội và phá hủy những chuẩn mựcđã được xã hội chấp nhận. Nhưng trong bệnh tâm thần phân liệt còn có cả cáchiện tượng không kiểm soát được hành động của bản thân. Điều này cũng cónghĩa là mặc dù đồng tính luyến ái đã được gạch tên khỏi danh sách các loạibệnh,nhưng vẫn chưa thể có một lời giải đáp xác đáng nào cho tất cả mọingười về hiện tượng đồng tính đang ngày một diễn ra nhiều như hiện nay.Các nghiên cứu về nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tínhluyến ái trên thế giới cũng có những thành tựu nổi bật. Ở mỗi quốc gia cónhững đặc điểm sinh thái và con người khác nhau. Chính vì vậy mà nhận thứcvề đồng tính luyến ái cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ và con người đấtnước đó. Ở những nước phương Tây như Canada, hoặc một số bang của Hoa6Kỳ, đồng tính luyến ái cũng được chấp nhận hóa và được kết hôn với nhau. Ởcác quốc gia châu Á, mặc dù vẫn chưa được chấp thuận nhiều, ngoại trừ TháiLan có những điều luật bảo vệ người đồng tính và chấp nhận nó thì hầu nhưcác quốc gia khác vẫn chưa chấp nhận và việc kỳ thị vẫn diễn ra hàng ngày.Đối với một số quốc gia theo đạo Hồi, việc một người đồng tính bị coi làphạm tội và phải chịu hình phạt rất cao. Những nghiên cứu rõ rệt về nhận thứccủa người đồng tính trên thế giới thì chưa có nhiều tài liệu cũng như sự thốngkê chính xác, điều đó thể hiện qua luật pháp và cách nhìn nhận của từng nướcđối với hiện tượng đồng tính luyến ái. Đặc biệt là nhận thức của sinh viên vềhiện tượng này, sinh viên là lớp tuổi trẻ có học thức cao. Chính vì vậy, việcnghiên cứu nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính được đẩy mạnhhơn.Còn ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu diễn ra dù chưa thực sựnhiều, nhưng cũng đã bước đầu có những cái nhìn tích cực và đổi mới đối vớihiện tượng nóng trên thế giới này. Việc thống kê một cách đầy đủ và rộngkhắp để đưa ra những số liệu đúng đắn về người đồng tính ở Việt Nam có ýnghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách đối với người đồng tính cũngnhư tác động đối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, những đề tài khoa học củacác nhà nghiên cứu tại Việt Nam thường diễn ra trong tình trạng khó khăn,khó khăn bởi vì tâm lý của người Việt thường ngại nhắc đến những trườnghợp nhạy cảm như thế này.Ngoài ra, sự hiểu biết những vấn đề nóng bỏng củaxã hội của người Việt vẫn chưa nhanh nhạy, mà chỉ là nghe đâu biết đấy.Những đề tài được nhắc đến nhiều tại Việt Nam như cuộc thăm dòtrực tuyến mang tên “Đặc điểm kinh tế, xã hội của nam giới có quan hệ tìnhdục đồng giới tại Việt Nam” của Viện nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môitrường hợp tác với Học viện báo chí tuyên truyền. Chương trình này đượcthực hiện bằng cách đăng tải bộ câu hỏi trực tuyến lên 5 diễn đàn của người7đồng tính, nhằm thu thập những thông tin để giúp cho mọi người hiểu rõ hơnvề cộng đồng người đồng tính tại Việt Nam.Các đề tài nghiên cứu về Nhận thức của sinh viên về đồng tính tạiViệt Nam cũng đang ngày được chú ý hơn trước bởi sức ảnh hưởng của vấnđề này tới Việt Nam ngày càng lớn. Tuy nhiên, những đề tài này vẫn đang ởdạng thực nghiệm chứ chưa được nghiên cứu rộng rãi, vì người ta e ngại tínhkhả quan của đề tài mang lại. Số người nghiên cứu về nó ngày càng nhiều,nhưng những kết quả đem lại vẫn chưa thật sự khả quan và chỉ đem lại hiệuquả tương đối.Trong một cuộc thăm dò nghiên cứu năm 2007 của đại học Sư phạmthành phố Hồ Chí Minh, với câu hỏi “Người đồng tính luyến ái có xấu haykhông?”. Kết quả có 80% trả lời là không. Đa phần sinh viên cho rằng, đó làquyền tự do của mỗi người, và việc là người đồng tính không phải lỗi do bảnthân người đó. Và một câu hỏi nữa đó là “Nếu phát hiện ra bạn trong lớpđồng tính, Em sẽ có thái độ như nào?”. Kết quả 72% khẳng định vẫn giữ mốiquan hệ bình thường với bạn, 34% giữ bí mật cho bạn,2% thấy khinh bỉ và13% thấy sợ. Tỉ lệ sinh viên cảm thấy đồng tính luyến ái không xấu và khôngkhinh bạn chiếm tỉ lệ áp đảo. Điều đó chứng tỏ sinh viên đang ngày càng cómột cái nhìn tích cực, và thiện cảm hơn đối với những người đồng tính.Ở Việt Nam có một viện nghiên cứu chuyên nghiên cứu về người đồngtính đó là iSee, trụ sở được đặt ở Nguyễn Tri Phương, quận Ba Đình. Mộtnghiên cứu của Viện về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam chothấy :1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính;4,1 % bị kì thị về vấn đề nhà ở;4,5% cho biết từng bị đánh đập vì là người đồng tính;15,1 % cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.8Kết quả nghiên cứu trên của Viện iSee cho thấy, việc gia đình mắngchửi con cái khi biết con là người đồng tính chiếm đa số, điều đó cũng đồngnghĩa với việc bố mẹ rất khó có thể chấp nhận con mình là người đồng tính vàkhả năng không chấp nhận ấy còn có thể tăng cao.Cuốn sách Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam – Bác sĩ Trần BồngSơn-NXB Trẻ 2002. Đây là một cuốn sách đi sâu vào những kiến thức khoahọc giới tính. Vấn đề đồng tính luyến ái cũng là một trong những nội dungnghiên cứu của nó. Qua đó, người đọc có thể thu được những hiểu biết vềnguyên nhân, bản chất của đồng tính luyến ái cũng như cách giải quyết đốivới hiện tượng này.Tạp chí AIDS và cộng đồng - Ủy ban thường trực phòng chống AIDSquốc gia ( số 1-12-2000 ), trong tạp chí này, đồng tính luyến ái được nhắc đếnnhư một nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng căn bệnh HIV-AIDS, đặc biệt làvới nhóm đồng tính luyến ái nam.Những đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường về đề tàiNhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính cũng đang được chú ý và mởrộng nhiều hơn. Điển hình có thể kể đến các trường như Đại học Khoa học Xãhội và Nhân văn, Học viện quản lý giáo dục, Đại học Sư phạm Hà nội…. Đặcbiệt phải kể đến đề tài được đánh giá cao của sinh viên Bùi Bích Hà của Đạihọc Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà nội.Nhìn chung, nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến áihiện nay có một vai trò rất quan trọng, nó đánh giá được tầm nhìn và sự hiểubiết của sinh viên về một vấn đề đang ngày càng được xã hội quan tâm. Bởi vìsinh viên là lớp người kế cận thực hiện tiếp những công việc của đất nước.Những người có trình độ học thức cao nên có những hiểu biết đúng đắn vềhiện tượng này.91.2. Khái niệm về nhận thứcTheo cách hiểu thông thường, nhận thức đó chính là cách nhìn nhận, cáchhiểu biết về những sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta.Theo cách khoa học, Nhà tâm lý học người Đức cho rằng “Nhận thức làsự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người. Nhận thức baogồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Chúng có mối quan hệ biệnchứng với nhau, và cơ sở, mục đích tiêu chuẩn của nhận thức là thực tiễn xãhội”.1.3. Khái niệm “ Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyếnái”1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của những người đồng tính luyến áiĐồng tính luyến ái là hiện tượng những người cùng giới có quan hệ tìnhdục với nhau.Những người đồng tính luyến ái bị hấp dẫn bởi những bạn tình đồnggiới thay vì những bạn tình khác giới. Họ vẫn có những vai trò giới nhất địnhtrong xã hội. Tuy nhiên xu hướng tình dục của họ không giống những ngườibình thường mà nghiêng về những người giống mình.1.3.2. Khái niệm “ Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyếnái”Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái, chính là cáchnhìn nhận, đánh giá của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái.1.4. Khái niệm sinh viênSinh viên theo từ gốc “student” trong tiếng Latin là những người làmviệc, học tập, tìm hiểu và khai thác tri thức.Theo nghĩa thông thường, sinh viên là những người học tập ở bậc Caođẳng và Đại học.101.5. Khái niệm giới tínhLà khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh học của nam và nữ.Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở cho nhữngchuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh học,văn hóa, kinh tế.Các đặc điểm của giới tính :- Là đặc trưng sinh học quy định hoàn toàn bởi gen qua cơ chế ditruyền.- Bẩm sinh.- Đồng nhất vì đây là sản phẩm của sự tiến hóa sinh học nên không phụthuộc vào không gian, thời gian.1.6. Khái niệm giớiGiới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã hội của nam và nữ.Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợiđược tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quanđến quá trình xã hội hóa.Các đặc điểm của giới:- Một phần vẫn bị quy định bởi yếu tố sinh học của giới tính.- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà được hình thành qua quátrình học tập, xã hội hóa cá nhân.- Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức do sự đa dạng của xãhội, nền văn hóa.- Có thể biến đổi.1.7. Khái niệm bản sắc giớiBản sắc giới liên quan đến sự nhận thức của cá nhân về nam giới hay nữgiới. Nói một cách khách, bản sắc giới là sự cảm nhận của cá nhân về giới củamình trong nền văn hóa. Bản sắc giới thường phù hợp với giới tính của cá11nhân nhưng không phải trường hợp nào bản sắc giới cũng đồng nhất với giớitính của cá nhân đó.1.8. Khía cạnh cá nhân và xã hộiTheo các nhà khoa học, hầu hết các hiện tượng Đồng tính luyến ái là dobẩm sinh, một số do xu hướng và một số do ngộ nhận về bản thân. Có nhữngngười muốn tò mò về giới tính thứ 3 này và cũng có những người bị lôi kéo,đua đòi theo xu hướng ngoại lai đang xâm nhập ngày càng nhiều vào nước ta.Những phim ảnh, tranh ảnh đang ngày càng nói nhiều về hiện tượng đồng tínhlàm giới trẻ hoang mang chưa định hướng được về mình.1.9. Khía cạnh Tâm lý họcVới cách tiếp cận Tâm lý học thì đồng tính luyến ái được coi là một hiệntượng tự nhiên bởi vì đó xuất phát điểm là những mong muốn về tình dụckhác với bình thường chứ không hẳn là do bệnh hoạn hay biến thái như tưtưởng cũ nhận định. Những người đồng tính luyến ái hoàn toàn bình thường.Họ vẫn sống và làm việc như những người bình thường và cống hiến cho xãhội.TIỂU KẾT CHƯƠNG 1Đồng tính luyến ái đang là một hiện tượng đang ngày càng nóng bỏngtrong xã hội. Việc nghiên cứu nhận thức của sinh viên về hiện tượng này sẽgiúp chúng ta thấy được tư tưởng, cách nhìn nhận về các hiện tượng tính chấtxã hội như thế nào, đó cũng chính là cách mà sinh viên thể hiện quan điểmsống của mình.12Chương 2TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2.1. Tổ chức nghiên cứu2.1.1. Thời gian nghiên cứuTừ tháng 11/2011 đến tháng 1/2012, tìm hiểu những tài liệu, những đềtài liên quan đến đề tài.Từ tháng 1/2012 đến tháng 2/2012, xây dựng đề cương cho đề tài nghiêncứu.Từ tháng 3/2012 đến tháng 4/2012, tiến hành phát phiếu điều tra, phỏngvấn, tiến hành thống kê kết quả.Từ tháng 4/2012 đến tháng 5/2012, tiến hành phân tích kết quả đã thuđược và hoàn thiện khoá luận tốt nghiệp.2.1.2. Nội dung nghiên cứuPhân tích, tổng hợp những tài liệu, những công trình nghiên cứu của cáctác giả trong và ngoài nước về vấn đề đồng tính luyến ái, nhận thức của sinhviên về hiện tượng đồng tính luyến ái.Xác định những khái niệm công cụ có liên quan làm cơ sở cho nghiêncứu thực tiễn.Nghiên cứu thực trạng nhận thức của sinh viên Khoa Giáo dục, Họcviện quản lý giáo dục về hiện tượng đồng tính luyến ái.2.2. Phương pháp nghiên cứu2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luậnĐây là phương pháp nghiên cứu những chuyên đề, bài viết, công trình,giáo trình của các tác giả trong và ngoài nước đã được công bố, đăng tải trêncác sách báo, tạp chí, mạng internet…về hiện tượng đồng tính luyến ái, nhậnthức của sinh viên, cá nhân về hiện tượng đồng tính. Đồng thời phân tích,tổng hợp và đánh giá những công trình đó nhằm mục đích xây dựng cơ sở lýluận cho đề tài.13Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu lý luận - phân tích tài liệu còn giúptôi nghiên cứu rõ hơn về thái độ của sinh viên nói riêng và cá nhân trong xãhội nói chung với người đồng tính luyến ái.2.2.2. Phương pháp quan sátQuan sát là một phương pháp nghiên cứu trong đó người quan sát sửdụng các quá trình hình thành tri giác để thu thập thông tin về hành vi, cử chỉ,lời nói của khách thể nghiên cứu trong những điều kiện nhất định nhằm đạtđược mục đích nghiên cứu nhất định.Phương pháp này được sử dụng nhiều trong quá trình phỏng vấn sâu,vừa phỏng vấn vừa quan sát điệu bộ khuôn mặt, cử chỉ, ánh mắt giọng nói củasinh viên.2.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏiBảng hỏi là hệ thống các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở các nguyên tắc:logic và theo nội dung nhất định nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thểhiện quan điểm của mình với những vấn đề thuộc về đối tượng nghiên cứu vàngười nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá biệt đầu tiên đáp ứng cácyêu cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu.Tôi tiến hành phát 100 bảng hỏi cho 100 sinh viên Khoa Giáo dục, Họcviện quản lý giáo dục để nghiên cứu nhận thức của sinh viên về hiện tượngnày.2.2.4. Phương pháp phỏng vấnPhỏng vấn là cách thức giao tiếp trực tiếp để thu thập thông tin về mộtsố vấn đề liên quan đến nhận thức của sinh viên với hiện tượng đồng tính. Nộidung phỏng vấn tập trung chủ yếu vào các vấn đề: Thái độ của sinh viên vớingười đồng tính luyến ái, và quan điểm của sinh viên về hiện tượng đồng tínhluyến ái.Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn ngẫu nhiên 10 bạn trong Khoa Giáodục để làm sáng rõ hơn nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính.142.2.5. Phương pháp xin ý kiến chuyên giaTrao đổi với những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này như cácchuyên gia làm trong các câu lạc bộ dành cho những người đồng tính để tìmhiểu chi tiết hơn.TIỂU KẾT CHƯƠNG 2Đề tài được chúng tôi nghiên cứu trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm2012 đến tháng 5 năm 2012. Trong đó, chúng tôi đã sử dụng nhiều phươngpháp nghiên cứu, nhiều công cụ nghiên cứu khác nhau, trong đó tập trung chủyếu là các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học để phục vụ yêu cầu nghiêncứu của đề tài. Ngoài ra, chúng tôi cũng linh hoạt sử dụng các phương phápđể có thể thu thập những thông tin, dẫn chứng cụ thể, thực tế bổ sung cho dữliệu của đề tài.15Chương 3THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀHIỆN TƯỢNG ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI3.1. Nhận thức cơ bản về hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên3.1.1 Mức độ quan tâm đến hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viênĐồng tính luyến ái đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới cũng như ViệtNam, nhưng trước đây do điều kiện đất nước trong chiến tranh và dư luận xãhội vẫn rất khắt khe với những hiện tượng bất bình thường nên nó không cócơ hội để phát triển. Từ sau khi đất nước ta hình thành cơ chế mở cửa, hiệntượng đồng tính luyến ái cũng theo đà đó phát triển hơn và được biết đếnngày một rộng rãi hơn. Bởi tuy đây chỉ là biểu hiện của một nhóm đối tượngnhỏ nhưng ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa xã hội rất rõ ràng.Sinh viên là nhóm có trình độ tri thức và năng lực được đánh giá caotrong xã hội. Họ đại diện cho một bộ phận tiên tiến của xã hội, luôn nhạy bénvới các hiện tượng mới nảy sinh cả những hiện tượng tích cực cũng như tiêucực. Thêm nữa, do đặc thù về lứa tuổi, đặc thù về nơi cư trú, nên sinh viêncũng có những hiểu biết tương đối về hiện tượng này.Sinh viên Khoa Giáo dục của trường Học viện quản lý giáo dục cũngvậy, họ chính là lớp tri thức tiên tiến, đại diện cho một tầng lớp xã hội tàinăng và nhiều hiểu biết. Sau khi điều tra đại diện 100 sinh viên của khoa Giáodục về hiện tượng Đồng tính luyến ái đã đưa ra những kết quả hết sức đángmừng về hiểu biết của sinh viên đối với hiện tượng đang rất nóng trong xã hộinày.Khi được hỏi “Anh(chị) có nghe nói nhiều về Đồng tính luyến áikhông?” thì có tới 90% sinh viên trả lời đã nghe rất nhiều lần, 9% sinh viênnghe nhiều, và 1% nghe nói về hiện tượng này ở mức độ bình thường. Điềuđó đồng nghĩa với việc 100% sinh viên đều đã từng nghe nói đến hiện tượngnày, chứng tỏ mức độ quan tâm của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính16luyến ái ở mức độ rất cao. Điều đó cũng chứng tỏ, đồng tính luyến ái hiện naykhông phải là một hiện tượng nhỏ cá biệt nữa mà đã được tồn tại thu hút sựquan tâm của dư luận xã hội và nhóm sinh viên.STTMức độNam giớiNữ giớiTổng1Nghe rất nhiều lần20%70%90%2Nghe nhiều2%7%9%3Bình Thường0%1%1%4Chưa bao giờ0%0%0%Bảng 1. Sự quan tâm của sinh viên tới hiện tượng đồng tính luyến áiQua bảng thống kê trên, ta có thể nhận thấy, số nữ sinh biết đến hiệntượng đồng tính luyến ái cao hơn so với các nam sinh. Tuy nhiên, vì đặc thùcủa khoa là nữ nhiều hơn nam nên số liệu trên chỉ là tương đối. Mặc dù chiếmsố lượng nam sinh rất ít, nhưng chúng ta có thể nhận thấy, hầu như 100% sinhviên nam đều nghe nói rất nhiều về hiện tượng này. Điều này xuất phát từnhững nguyên nhân khách quan. Trước hết, nam giới luôn nhạy bén với cácvấn đề nóng bỏng của xã hội, năng động hơn và thích tìm hiểu những vấn đềmới lạ, đặc biệt là liên quan đến giới tính. Còn nữ giới, luôn được quan niệmphải dịu dàng, kín đáo. Thêm nữa, nữ giới thường e dè với những hiện tượngnhạy cảm như đồng tính luyến ái. Do vậy, tỉ lệ nữ sinh mặc dù chiếm số đôngdo chiếm nhiều hơn, nhưng tỉ lệ phần trăm nam sinh biết đến hiện tượng nàylại chiếm ưu thế so với mặt bằng chung tỉ lệ nam nữ. Và chính vì đã đượcnghe rất nhiều về hiện tượng Đồng tính luyến ái trong cuộc sống nên khi đượchỏi Đồng tính luyến ái là gì, thì 100% sinh viên đều xác định được đồng tínhluyến ái chính là hai người đồng giới thích nhau.17Biểu đồ 1. Sự quan tâm của sinh viên tới hiện tượng đồng tính luyến áiMột vấn đề nữa được nhận thấy sau khi nghiên cứu đó là mặc dù đượcnghe nói về đồng tính luyến ái ít hay nhiều, nhưng mỗi người đều có nhữnghiểu biết và nhận định khác nhau, có những đánh giá chủ quan của bản thânmình về sự ảnh hưởng của đồng tính luyến ái đến người đồng tính.18Mức độ ảnh hưởng ( % )STTNội dungRất ảnh hưởng Ảnh hưởng Không ảnh hưởng01Ảnh hưởng đến50%20%30%lối sống02Ảnh hưởng đến70%24%6%đạo đức03Ảnh hưởng đến30%45%25%sinh hoạt04Ảnh hưởng đến40%30%30%sức khỏe05Ảnh hưởng đến10%20%70%tình cảmBảng 2. Mức độ ảnh hưởng của đồng tính luyến ái đến người đồng tínhtheo quan điểm của sinh viên.Nhìn vào bảng thống kê, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đó là cáchnhìn nhận vấn đề của mỗi sinh viên là hoàn toàn không giống nhau. Khi nhắcđến đồng tính luyến ái, 70% trong số 100 sinh viên được nghiên cứu cho rằng,đồng tính luyến ái ảnh hưởng đến lối sống của người đồng tính. 30% sinhviên còn lại cho rằng, đồng tính thật ra không ảnh hưởng gì đến đồng tínhluyến ái. Khi được hỏi về ảnh hưởng đến đạo đức thì đến 94% sinh viên chorằng, đồng tính luyến ái ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức của con người.Và điều ấy trái với tự nhiên và thuần phong mĩ tục. Chỉ có 6% cho rằng,không có ảnh hưởng gì đến đồng tính luyến ái.Bản thân của mỗi sinh viên có những hiểu biết khác nhau và những cáchnhìn nhận về vấn đề không giống nhau. Nhìn vào biểu đồ thống kê, chúng tacó thể nhận thấy, đạo đức là vấn đề được sinh viên quan tâm nhất và cho đó làmức độ ảnh hưởng cao nhất đối với người đồng tính. Ở đây chúng ta khôngxét ai đúng, ai sai. Mà chúng ta chỉ thống kê lại những số liệu đã thu thậpđược sau khi điều tra.Về hiện tượng đồng tính luyến ái, ít nhiều sẽ có những mức độ ảnh hưởngkhác nhau tùy thuộc thời điểm và tùy thuộc suy nghĩ của mỗi người. Đồng19tính luyến ái xuất hiện từ lâu, mặc dù được nghe nói đến nhiều,nhưng khôngphải sinh viên nào cũng có những hiểu biết căn bản về nó,và đánh giá nó mộtcách khách quan và chính xác nhất.Vấn đề tiếp theo trong đề tài nghiên cứu nhận thức của sinh viên đó là hỏivề độ tuổi mà đồng tính luyến ái xuất hiện. Theo các nhà khoa học thì đồngtính luyến ái xuất hiện chủ yếu ở nam giới và thường phát triển khi con ngườibước vào độ tuổi trưởng thành. Đối với những người đồng tính do bẩm sinhthì đây là giao đoạn họ phát triển cả về thể chất và tinh thần. Do vậy, nhữngbiểu hiện tưởng chừng như chỉ có ở thời thơ ấu bây giờ cũng trở nên vữngchắc hơn, thôi thúc họ sống theo cách của mình. Trên thực tế và nhữngnghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng, đồng tính luyến ái xuất hiện ở cảhai giới và ở mọi lứa tuổi.STTĐộ tuổiTỉ lệ ( % )01 Thiếu niên0%02 Thanh niên1%03 Trung niên0%04 Mọi độ tuổi99%Bảng 3. Quan điểm của sinh viên về độ tuổi có thể bị đồng tính luyến ái.Đã có rất nhiều sinh viên nhận thức đúng đắn về vấn đề này, có đến 99%sinh viên cho rằng, đồng tính luyến ái xuất hiện ở mọi độ tuổi, bất kể tuổi táclà bao nhiêu, thiếu niên, thanh niên, hay cả trung niên đều có những ngườiđồng tính luyến ái. 1% sinh viên cho rằng, đồng tính luyến ái chỉ xuất hiện ởthanh niên. Trong vấn đề này, sinh viên đã có những hiểu biết tương đối đầyđủ và chính xác về hiện tượng này. Bất kể tuổi tác là bao nhiêu, già hay trẻ,đồng tính luyến ái có mặt ở hầu hết các độ tuổi.Đối với mỗi cá nhân trong xã hội, từ khi sinh ra đã luôn gắn với một bảnsắc giới. Đó là sự nhận thức của cá nhân về giới của mình. Bản sắc giớithường phù hợp với giới tính nhưng cũng có trường hợp không phải như vậy.Đó chính là những trường hợp của những người đồng tính luyến ái. Về mặt20sinh học, họ là nam giới hoặc nữ giới. Nhưng trong nhận thức, họ mong muốnvà cảm thấy mình thuộc về giới tính kia hoặc có thể có quan hệ tình cảm,quan hệ tình dục với người cùng giới tính với mình.Nam giới là đối tượng có khả năng làm lan truyền bệnh HIV - AIDS caohơn so với nữ giới do đặc thù về lối sống. UNAIDS - tổ chức phòng chốngcăn bệnh thế kỷ đã đưa ra năm lý do giải thích tại sao sao chiến dịch phòngchống AIDS toàn cầu năm 2000 lại tập trung vào nam giới. Trong đó có mộtnguyên nhân đáng chú ý là quan hệ tình dục đồng giới không an toàn giữanam với nam gây nguy cơ cho cả nam và nữ. Phần lớn quan hệ tình dục giữanam với nam là dấu giếm. Và theo nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới,có đến hơn 1/6 nam giới nói rằng họ có quan hệ tình dục đồng giới. Rất nhiềutrong số họ đồng thời cũng có quan hệ với cả phụ nữ. Do vậy nguy cơ lâytruyền bệnh HIV/AIDS tăng lên rất nhiều.Mặc dù hiện nay, đồng tính luyến ái đã được tổ chức y tế thế giới côngnhận không phải là một bệnh lý, nhưng quan điểm lâu đời cuả một người baogiờ cũng khó mà có thể thay đổi. Nhất là đối với một nước phương Đông nhưViệt Nam chúng ta, nhận thức của con người rất khó thay đổi. Xã hội đangngày càng có cái nhìn tích cực hơn đối với những người đồng tính. Nhưngkhông thể phủ nhận rằng, tình trạng kì thị người đồng tính hiện nay vẫn cònnhiều. Nhất là ở những vùng quê. Tình trạng kì thị người đồng giới ngày mộttăng cao. Họ cho rằng, đó là bệnh hoạn và đi trái với thuần phong mĩ tục củanước nhà. Chính vì vậy, bản thân người đồng giới còn phải mất rất nhiều thờigian để có thể được công nhận là một giới tính thực thụ.Nam giới và nữ giới ở lứa tuổi thiếu niên nếu bị đồng tính luyến ái cónhững suy nghĩ, mong muốn được gắn bó với những người cùng giới. Họ vẫnquan hệ với mọi người, nhưng người cùng giới là đối tượng họ gửi gắm tìnhcảm. Lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi dễ hình thành và phát triển những quanđiểm sai lệch về giới tính nhất.213.1.2 Mức độ phổ biến của hiện tượng đồng tính luyến ái qua điều tra tầnsuất gặp của sinh viênQua điều tra, có thể thấy đa số sinh viên đã biết đến hiện tượng đồng tínhluyến ái. Điều này chứng tỏ rằng đồng tính luyến ái không còn tồn tại nhưmột số trường hợp cá biệt mà đã phát triển khá rộng rãi. Qua các phương tiệnthông tin đại chúng, sách báo gia đình và bè bạn, sinh viên thu thập đượcnhững hiểu biết về hiện tượng này. Vấn đề đặt ra là trong thực tế, đồng tínhluyến ái có tồn tại phổ biến như vậy hay không. Có thể giải quyết câu hỏi nàybằng cách tìm hiểu mức độ đã gặp hiện tượng này của nhóm sinh viên.STTTần suất gặp hiện tượng đồng tính luyến áiTỉ lệ (%)01Thường xuyên7%02Thỉnh thoảng70%03Hiếm khi14%04Chưa bao giờ9%Bảng 4. Tần suất sinh viên gặp hiện tượng đồng tính luyến áiBiểu đồ 2. Tần suất gặp hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viênNhìn vào bảng số liệu thống kê thu được, ta có thể dễ dàng nhận thấy tỉ lệsinh viên đã gặp, đã biết những người đồng tính luyến ái ít nhất 1 lần trở lênlên đến con số 91%,trong khi đó chỉ có 9% sinh viên chưa gặp hiện tượng nàybao giờ.22Điều này càng khẳng định rằng đồng tính luyến ái không còn là một hiệntượng cá biệt riêng ai, ít người quan tâm, biết đến mà mức tồn tại của nó đãkhá phổ biến. Trong số 91% sinh viên trả lời đã từng gặp những người đồngtính, có 7% sinh viên gặp thường xuyên, đến 70% sinh viên thỉnh thoảng gặpvà 14% sinh viên hiếm khi gặp. Xã hội Việt Nam mở cửa với quốc tế, chínhvì vậy cái nhìn của xã hội cũng đã rộng mở hơn rất nhiều, mặc dù cũng cónhiều người không dám nhận mình như thế, tuy nhiên, số người công khaibản thân mình cũng đủ để nhóm sinh viên nhận ra. Người đồng tính hiện nayđã nhận được thái độ cởi mở hơn của dư luận, họ vẫn đang cố gắng sống tốtđể khẳng định với mọi người là đồng tính luyến ái không phải là xấu mà chỉkhác đi về xu hướng tình dục. Điều đó thuộc về cá nhân và không ảnh hưởngđến ai.Mức độNam sinhNữ sinhTổngThường xuyên2%5%7%Thỉnh thoảng20%50%70%Hiếm khi4%10%14%Chưa bao giờ0%9%9%Bảng 5. Mức độ gặp người đồng tính của nam sinh và nữ sinhBiểu đồ 3. Mức độ gặp người đồng tính của nam sinh và nữ sinhỞ đây nếu xét về số lượng % tương quan gặp nhiều hơn thì sẽ nghiêng vềnữ giới. Tuy nhiên chúng ta xét trên tương quan số lượng nam sinh và nữ sinh23thì rõ ràng, là nam sinh đã gặp, và biết những trường hợp người đồng tính caohơn so với nữ sinh. Và tỉ lệ sinh viên nữ chưa gặp hiện tượng này cao hơnnam. Tương tự như đánh giá về mức độ quan tâm tới hiện tượng đồng tínhluyến ái, nguyên nhân của sự khác biệt này là do bị chi phối với các đặc trưnggiới tính mạnh bạo, ham tìm hiểu nên nam giới luôn có xu hương thích tìmhiểu các hiện tượng xã hội mới nảy sinh. Thêm nữa, theo quan điểm khoa họcvà trong thực tế, hiện tượng đồng tính cũng xuất hiện nhiều ở nam giới hơn,dẫn đến mức độ gặp nhiều hơn của nhóm sinh viên nam.Ngoài ra chúng ta có thể nhận thấy đó là đặc trưng của sinh viên khoaGiáo dục đó là 80% các bạn sống xa gia đình, và phải tự lập từ rất sớm.Những khoảng thời gian rảnh rỗi, những khoảng trống trong lúc học tập cũngchính là lúc các bạn tìm hiểu những vấn đề đang được xã hội hết sức quantâm. Người đồng tính hiện nay ngày càng xuất hiện với mật độ rất đông. Bằngchứng đó là có rất nhiều người đi ra đường đã gặp và nhìn thấy những ngườiđồng tính. Người đồng tính đang ngày càng tìm được những chỗ đứng riêngcho mình mà không sợ xã hội kì thị. Môi trường sống của sinh viên cũng ảnhhưởng rất lớn đến nhận thức của họ. Sinh viên cũng là những người thuộctầng lớp thanh niên, đang ở độ tuổi trưởng thành về tâm sinh lý. Do vậy, cóthể xuất hiện xu hướng sống lệch lạc nếu trong môi trường có những ngườiđồng tính luyến ái hoặc do chính sự tò mò của bản thân. Một trường hợp sinhviên nam học tại trường đại học của Hải Phòng đã tự kể về nguyên nhân mìnhđã trở thành người đồng tính luyến ái trong một phóng sự của báo Hoa HọcTrò (“Tôi tự đánh mất giới tính của mình thế nào” số 420 - 421, ra ngày 2712- 2001 và 1-1-2002) “Tôi thức giấc vì nghe tiếng cười, tôi không còn tin ởmắt mình nữa khi thấy Kvà V, hai anh sinh viên năm 4 phòng tôi đang làmmột cái trò kỳ quái vô cùng ngay trên chiếc giường dưới tôi. Cả hai anh ấyđều hành động như vợ chồng..”. Bạn trai này đã phải trải qua những giờ phútkinh hoàng với sự ám ảnh. Bạn đã định tâm sự với những người còn lại trongphòng nhưng không ngờ những người bạn ấy cũng xử sự như những người24đồng tính luyến ái. Vì gia đình quá nghèo, bạn không thể xin chuyển ra ngoàiở trọ và cuối cùng đã đánh mất giới tính của chính mình. Sự dụ dỗ, lôi kéocủa những người xung quanh cùng với sự tồn tại công khai quan hệ tình dụcđồng giới đã khiến một bạn sinh viên trở thành người đồng tính luyến ái. Sinhviên thuê nhà trọ ở ngoài có tỷ lệ gặp hiện tượng ở nơi sống của mình caonhất. Bởi nếu những người trong ký túc xá đều là sinh viên thì những người ởnhà trọ có nghề nghiệp và lối sống rất khác nhau. Đây là môi trường thuận lợinảy sinh các tệ nạn xã hội trong đó có đồng tính luyến ái. Khi được hỏi đã baogiờ gặp hiện tượng này ở nhà trọ mình ở chưa, một bạn nữ cho biết: “Mìnhđã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ở khu mình ở, đó là hai người nữ. Họthường xuyên đi chơi với nhau, người nữ đóng vai bạn trai ăn mặc rấtgiống con trai. Đi đâu họ cũng đèo nhau và có cử chỉ thân mật như nhữngngười khác giới khi yêu nhau. Họ công khai luôn mối quan hệ củamình.”(H. nữ, K2A GD, nhà trọ - Kim Giang). Có thể thấy hiện tượng đồngtính luyến ái với các bạn sinh viên không còn lạ lẫm nữa bởi những ví dụ củathực tế tồn tại cùng với các bạn.Còn với nhóm sinh viên ở cùng gia đình thì trường hợp gặp thườngxuyên là rất ít tuy nhiên vẫn có. Tuy nhiên, các bạn sinh viên thuộc nhóm nàythường gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ở nơi công cộng và các tụ điểm giảitrí cao bằng nhóm sinh viên thuê nhà. Đây là hai nhóm có tính di động xã hộicao hơn nhóm sinh viên trong ký túc xá. Bởi hầu hết các bạn sinh viên hiện ởcùng gia đình đều sống tại Hà Nội. Họ có thời gian và điều kiện kinh tế để tớinhững nơi vui chơi giải trí và các sinh viên ở nhà trọ cũng vậy. Cho nên họ cóthể gặp hiện tượng đồng tính luyến ái tại những nơi đó. Tỷ lệ sinh viên nóichung lựa chọn địa điểm này cao áp đảo so với các địa điểm khác. Bởi ngườiđồng tính luyến ái thường không dám công khai mối quan hệ cũng như lốisống của mình. Do vậy, chỉ khi tới những địa điểm công cộng, giữa nhữngngười xa lạ, họ mới dám sống theo cách của mình, ít dấu giếm hơn, đặc biệt lànhững nơi tập trung những đối tượng như mình. Điều này cũng chứng tỏ rằng,25


Page 2

-->

PHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài:Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội hoàn thiện và phức tạp nhất. Trong khi tìm đường lên các vì sao, loài người đồng thời quay trở lại tìm hiểu chính mình. Và công việc này cũng không kém phần khó khăn so với các nghiên cứu khoa học về vũ trụ, kỹ thuật và tự nhiên. Tiến bộ khoa học gần đây nhất - việc giải mã và công bố bản đồ gen đã mở ra cánh cửa cho việc đem lại những hiểu biết mới về con người, đặc biệt là đóng góp cho việc chữa trị những căn bệnh nan y. Tuy nhiên, với tư cách vừa là nhà nghiên cứu vừa là đối tượng nghiên cứu, con người đôi khi không thể tìm ra câu trả lời cho những câu đố về bản thân mình.Hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một trong những vấn đề mà loài người hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như nguyên nhân và giải pháp cho nó. Xét về mặt y học, các nhà khoa học cho rằng đây có thể được coi là như một loại bệnh tâm thần. Họ xếp đồng tính luyến ái vào nhóm bệnh về lệch lạc đối tượng. Nhưng nguyên nhân dẫn đến nó không đơn thuần chỉ nằm ở khía cạnh bệnh lý mà còn ở cả khía cạnh tâm lý. Có thể đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp dẫn đến sự phát triển lệch lạc từ khi còn nhỏ hoặc bị người đồng giới lợi dụng. Và theo quan điểm của nhiều người, đồng tính luyến ái là một hiện tượng lệch chuẩn. Đây là một lối sống không có lợi cho xã hội cả về mặt đạo đức cũng như phát triển. Bởi những gia đình của người đồng tính luyến ái (nếu có) sẽ không thể thực hiện được một chức năng quan trọng - duy trì nòi giống để đảm bảo sự phát triển của xã hội.Trong những năm gần đây trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồng tính luyến ái phát triển mạnh mẽ. Đây đó đã xuất hiện những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho những người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam, từ sau thời điểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hoá tư tưởng nước ngoài đã xâm nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lối sống và quan niệm của người dân.Tầng lớp chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là thanh niên. Đây là thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên quan niệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻ thường chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi những điều mới lạ chưa rõ tích cực hay tiêu cực. Hiện tượng đồng tính luyến ái ở Việt Nam được quan niệm như một lối sống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác với những giá trị truyền thống, nền tảng văn hoá của dân tộc. Trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái, chỉ ra những trường hợp coi đồng tính luyến ái như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính luyến ái còn phát triển trở thành một tệ nạn xã hội - đặc biệt là đồng tính luyến ái nam. Chính vì thế dư luận xã hội thường không đồng tình và coi đây không chỉ là một loại bệnh lý thông thường mà còn phát triển thành một lối sống lệch lạc, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thêm nữa, người đồng tính luyến ái còn là nhóm nguy cơ cao về bệnh HIV do họ thường xuyên thay đổi bạn tình, ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng. Nhóm sinh viên là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao, đồng thời đây cũng là lớp người kế cận của đất nước. Do vậy đòi hỏi họ phải luôn có những hiểu biết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh mình. Thêm nữa họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễ bị ảnh hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở bất kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế sinh viên cần có những hiểu biết nhất định về nó để ngăn chặn cũng như tránh khỏi sự lôi kéo của những đối tượng xấu. Xuất phát từ nhận định như vậy, tôi đã chọn đề tài "Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái" nhằm tìm hiểu phần nào hiểu biết cũng như thái độ của họ về hiện tượng này. Trong phạm vi luận văn, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh viên trên địa bàn Hà Nội mà chỉ tập trung khảo sát nhóm sinh viên của hai trường đại học Khoa học xã hội - nhân văn và đại học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tàiXã hội học là bộ môn khoa học luôn đi sát với những biến đổi của thực tiễn. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào mới nảy sinh đều cần đến sự đánh giá tìm hiểu của xã hội học để từ đó đưa ra những hiểu biết cũng như xu hướng giải quyết. Đồng tính luyến ái là một hiện tượng không nằm ngoài quy luật đó.Vốn là một hiện tượng tưởng chừng như cá biệt nảy sinh từ lối sống hay quan hệ của con người nhưng đồng tính luyến ái nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của xã hội bởi những ảnh hưởng của nó đối với nền tảng đạo đức, lối sống cũng như sự phát triển của cả cộng đồng. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này rất phức tạp. Có trường hợp là bẩm sinh như một loại bệnh lý nhưng nhiều khi đó là xuất phát từ ảnh hưởng của môi trường sống hoặc do lối sống, nhận thức của cá nhân. Trong khi các nhà khoa học còn đang tranh cãi về nguyên nhân của hiện tượng này thì nó đã kịp gây ra những ảnh hưởng tới đời sống của toàn xã hội. Nhóm đồng tính luyến ái được coi là nhóm nguy cơ cao về lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới. Thêm nữa, lối sống bất bình thường của người đồng tính luyến ái tạo nên những tác động tới nền văn hoá, đạo đức và luật pháp của mỗi quốc gia.Ở nước ta, tuy rằng đồng tính luyến ái vẫn chỉ tồn tại ở cá biệt một số nhóm đối tượng nhưng trong thời gian gần đây, nó có xu hướng phát triển mạnh hơn. Nhiều người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên coi đây như một thứ mode, một cách ăn chơi sành điệu. Thêm nữa, tệ nạn mại dâm nam đã từng không ít lần gây đau đầu cho các nhà quản lý. Ở Hà Nội, trong thời gian vừa qua không ít lần báo chí đã phải đề cập đến những tụ điểm tụ tập của giới đồng tính ngay tại những nơi vui chơi giải trí công cộng. Không chỉ là một hiện tượng lạ, một loại bệnh lý, đồng tính luyến ái ở Việt Nam được coi như sự đi xuống về đạo đức, trái với những giá trị văn hoá nước nhà. Việc giải quyết nó là một việc rất khó khăn bởi những người đồng tính luyến ái vẫn được coi như những thành viên trong xã hội, sự phát triển của họ gắn liền với sự phát triển của xã hội. Do vậy việc trước tiên của quá trình giải quyết hiện tượng này là tìm hiểu sự nhận thức và hiểu biết cũng như thái độ của người dân. Ở đây, đề tài nghiên cứu tập trung vào nhóm sinh viên. Bởi đây là nhóm tiêu biểu cho thanh niên, đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng xã hội mới lạ trong đó có đồng tính luyến ái. Sinh viên là những người làm chủ đất nước tương lai nên càng cần có sự hiểu biết để giải quyết, phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng này.3. Mục tiêu nghiên cứu3.1 Tìm hiểu nhận thức của nhóm sinh viên về bản chất cũng như những biểu hiện, nguyên nhân và đối tượng của hiện tượng đồng tính luyến ái. Từ đó làm rõ thái độ cũng như hành vi tương ứng của sinh viên.3.2 Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thái độ và hành vi của sinh viên 3.3 Tìm hiểu mức độ phổ biến của hiện tượng này qua sự đánh giá cuả sinh viên.4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu4.1 Đối tượng nghiên cứu:Nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái4.2 Khách thể nghiên cứu:Sinh viên trường đại học KHXH-NV và trường đại học Tự Nhiên thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội.4.3 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu:- Địa bàn nghiên cứuTrường ĐH KHXH- NV và trường ĐH Tự nhiên- Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường ĐH KHXH-NV và trường đại học Tự Nhiên về hiện tượng đồng tính luyến ái cũng như thái độ, hành vi tương ứng. Đánh giá sự ảnh hưởng của yếu tố giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia đình và nơi sống trước khi vào đại học với các yếu tố trên. Đề tài chỉ tập trung vào sự hiểu biết và đánh giá của sinh viên về hiện tượng này và khía cạnh xã hội mà không đi sâu vào khía cạnh khoa học.4.4 Mẫu nghiên cứu:Mẫu nghiên cứu được lựa chọn gồm 200 sinh viên thuộc hai trường Khoa học xã hội- nhân văn và Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia. Cơ cấu mẫu như sau:- 50% sinh viên nam và 50% sinh viên nữ.- 50% sinh viên nông thôn và 50% sinh viên đô thị.- Tỷ lệ sinh viên có nơi cư trú là ký túc xá, nhà trọ và gia đình tồn tại ngẫu nhiên.- Tỷ lệ sinh viên thuộc loại hình gia đình công nhân viên chức, buôn bán, nghề nông và nhóm nghề khác tồn tại ngẫu nhiên.Cơ cấu mẫu điều traTiêu chí Đặc điểm Số lượng %Nam 100 50%Nữ 100 50%Nơi cư trúKý túc xá 54 27%Gia đình 72 36%Nhà trọ 74 37%Nơi sống trước khi Đô thị 100 50%Nông thôn 100 50%Công nhân - viên chức 117 58.5%Buôn bán 20 10%Nghề nông 41 20.5%Nghề khác 22 11%5. Phương pháp nghiên cứu5.1 Phương pháp luận:Trong luận văn, người viết sử dụng hệ phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm xem xét vấn đề nghiên cứu dưới góc độ khoa học.5.2 Phương pháp cụ thể: 5.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi:Chúng tôi đã phát 200 bảng hỏi chia đều cho hai nhóm sinh viên thuộc ĐH Khoa học xã hội - nhân văn và ĐH Tự nhiên. Bảng hỏi được xây dựng gồm 14 câu hỏi đóng và 1 câu hỏi mở nhằm tìm hiểu về :- Đặc điểm cá nhân của sinh viên như giới tính, nơi cư trú hiện nay, nơi sống trước khi vào đại học và nghề nghiệp của bố mẹ.- Nhận thức của họ về hiện tượng đồng tính luyến ái.- Mức độ phổ biến về hiện tượng này qua sự đánh giá của sinh viên.- Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và người đồng tính luyến ái.5.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâuPhương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại những thông tin định lượng có tính khái quát. Để tìm hiểu thêm những thông tin định tính chi tiết và sâu sắc hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 10 sinh viên của hai trường nhằm hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề và phát hiện những khía cạnh mới mẻ và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.5.2.3 Phương pháp phân tích tài liệu:Luận văn có sử dụng một số tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm thu được những thông tin có tính khách quan và khoa học.6. Giả thuyết nghiên cứu:6.1 Đồng tính luyến ái là một hiện tượng rất phức tạp của xã hội hiện nay và đã được đa số sinh viên biết đến.6.2 Sinh viên có những hiểu biết tương đối về nguyên nhân, bản chất, biểu hiện cũng như đối tượng của hiện tượng này. Từ nhận thức, họ có thái độ và quan điểm đánh giá tương ứng.6.3 Nhận thức cũng như thái độ, hành vi của nhóm sinh viên đối với hiện tượng này chịu sự chi phối của yếu tố kinh tế-văn hoá- xã hội, giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia đình, nơi sống trước khi vào đại học.7. Khung lý thuyết:Điều kiện kinh tế-văn hoá-xã hộiNhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái:- Nguyên nhân- Biểu hiện- Đối tượng- Bản chấtĐặc điểm cá nhân của sinh viênNỘI DUNG CHÍNHCHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀICƠ SỞ LÝ LUẬN1. Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới và ở Việt Namvà xu hướng giải quyếtHiện tượng đồng tính luyến ái đã xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng với sự phát triển của con người. Như ở Ấn Độ, vào độ tuổi vị thành niên, những chàng trai phải trở thành một giới thứ ba tức là yêu và sống chung với một người cùng giới như một dạng hôn nhân thử nghiệm. Sau giai đoạn đó họ lại yêu và lấy một người phụ nữ như bình thường. Hoặc ở Châu Phi, có trường hợp một người nam hay một người nữ có thể yêu một người cùng giới với mình trong một thời gian. Điều này là do yếu tố văn hóa của bộ tộc chi phối. Tuy nhiên hiện tượng chỉ dừng lại ở mức tồn tại trong một thời điểm hay một nền văn hoá riêng biệt chứ không mang tính công khai hay chính thức. Đồng tính luyến ái dù ở bất kỳ châu lục nào hay nền văn hóa nào cũng đều bị coi là một hiện tượng bất bình thường. Ở châu Âu và Hoa Kỳ, những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX là thời kỳ của những phong trào" giải phóng" của người đồng tính luyến ái, đấu tranh đòi quyền bình đẳng trong xã hội cũng như vượt qua những sự chỉ trích của cộng đồng. Đây cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của phong trào nữ Hành viThái độquyền. Và dường như cũng đã có một sự thay đổi trong mức độ cởi mở khi bàn luận về đồng tính luyến ái cũng như sự đồng cảm đã tăng lên với những người thuộc giới thứ ba này. Tuy nhiên, liệu đồng tính luyến ái có thể đi vào cuộc sống như một hiện tượng bình thường được không và cộng đồng có chấp nhận sự bình đẳng của họ không khi gia đình vẫn thực sự là nền tảng của xã hội. Trên thực tế, người đồng tính luyến ái vấp phải rất nhiều khó khăn khi công khai giới tính của mình như bị khinh rẻ, bị đối xử bất bình đẳng và thậm chí bị đánh đập hay bị giết hại.Phong trào đòi quyền bình đẳng của người đồng tính luyến ái(Nguồn: Sociology of marriage and the family. Scott Coltrane/ Randall Collins)Theo một số nghiên cứu thì người đồng tính luyến ái chiếm khoảng từ 1 đến 12 % dân số thế giới. Ở Hoa Kỳ con số này là trên 1% dân số. Ở Trung Quốc có khoảng từ 36 đến 48 triệu người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam chưa có con số thống kê chính xác nhưng theo các nhà khoa học thì tỷ lệ người đồng tính luyến ái chiếm khoảng 1 % dân số. Xét theo số lượng thì con số trên không lớn nhưng những vấn đề xung quanh nhóm đối tượng này đã làm đau đầu những nhà quản lý văn hóa và xã hội. Bởi đồng tính luyến ái không chỉ là một căn bệnh mà nhiều khi là một lối sống thiếu lành mạnh gây hại cho văn hoá và là một nguy cơ chủ yếu dẫn tới sự gia tăng của bệnh HIV/ AIDS. Ở Việt Nam, tệ nạn mại dâm đồng giới và đặc biệt là mại dâm nam đã manh nha phát triển. Một số báo chí trong thời gian gần đây đã thường xuyên đề cập đến hiện tượng này như báo An ninh thế giới( số 281- ngày 30/5/2002) đưa tin về một địa điểm tụ tập của giới đồng tính ngay giữa thành phố Hồ Chí Minh - rạp chiếu phim Đồng Khởi- quận 1. Loại tệ nạn xã hội này không những gây hại cho sự phát triển lành mạnh về mặt thể chất của xã hội mà sự tồn tại của nó còn ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, lối sống của cộng đồng. Đặc biệt là một số sinh viên nam đã chấp nhận việc này để kiếm tiền như trên báo chí đã đăng tải. Chính vì vậy các quốc gia trên thế giới và cả Việt Nam đã và đang tìm hiểu và giải quyết vấn đề này. Ở Hà Lan và một bang ở Hoa Kỳ đã có đạo luật cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn. Hay Trung Quốc năm 1996 đã đồng ý với Tổ chức y tế thế giới không coi đây là một chứng bệnh, gạch tên nó trong danh sách các chứng rối loạn tâm thần.Việt Nam cũng đã có một số biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này như kiên quyết xử lý tệ nạn mại dâm nam hay đưa lên phương tiện thông tin đại chúng coi đồng tính luyến ái như một lối sống lệch lạc. Nhìn chung dư luận xã hội đều không đồng tình và muốn ngăn chặn hiện tượng này. Tuy nhiên nếu đây là một lối sống lệch lạc, bệnh hoạn gây hại cho đạo đức cũng như sự phát triển của xã hội thì cách nhìn nhận và xử lý trên là hợp lý. Nhưng những trường hợp người đồng tính luyến ái là bẩm sinh và hoàn toàn muốn có một cuộc sống bình thường thì cũng đòi hỏi một sự cảm thông và giúp đỡ chân thành của cộng đồng.2. Hệ khái niệm công cụ2.1 Khái niệm sinh viên:Sinh viên theo từ gốc"student" trong tiếng Latinh là những người làm việc, học tập, tìm hiểu và khai thác tri thức.Theo nghĩa thông thường, sinh viên là người học tập ở bậc trung cấp, cao đẳng và đại học.2.2 Khái niệm giới tính: Là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh học của nam và nữ. Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở cho những chuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh học, văn hoá, kinh tế * Các đặc điểm của giới tính- Là đặc trưng sinh học quy định hoàn toàn bởi gien qua cơ chế di truyền.- Bẩm sinh.- Đồng nhất vì đây là sản phẩm của sự tiến hoá sinh học nên không phụ thuộc vào không gian và thời gian. 2.3 Khái niệm giới:Giới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã hội của nam và nữ. Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan đến quá trình xã hội hoá.* Các đặc điểm của giới:- Một phần vẫn bị quy định bởi yếu tố sinh học của giới tính.- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà được hình thành qua quá trình học tập, xã hội hoá cá nhân.- Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức do sự đa dạng của xã hội, nền văn hoá. - Có thể biến đổi.2.4 Khái niệm bản sắc giớiBản sắc giới liên quan tới sự nhận thức của cá nhân về nam giới hay nữ giới. Nói cách khác, bản sắc giới là sự cảm nhận của cá nhân về giới của mình trong nền văn hoá. Bản sắc giới thường phù hợp với giới tính của cá nhân nhưng không phải trường hợp nào bản sắc giới cũng đồng nhất với giới tính của cá nhân đó.2.5 Khái niệm vai trò giới- Vai trò xã hội là những mong đợi của xã hội đối với một cá nhân nào đó phù hợp với địa vị của anh ta. Quyền lợi và nghĩa vụ là hai thành tố quan trọng nhất của vai trò xã hội.- Vai trò giới: là những mong đợi của xã hội với một chàng trai hay một cô gái về những mô hình, hành vi ứng xử phù hợp với phụ nữ hay nam giới.Những vai trò của giới bao gồm:- Vai trò sản xuất: là những hoạt động do đàn ông hay phụ nữ thực hiện( theo quan niệm truyền thống chủ yếu là nam giới) nhằm tạo ra của cải vật chất xã hội, hàng hoá dịch vụ để sử dụng trao đổi.- Vai trò tái sản xuất: là những hoạt động cần thiết đảm bảo tái sản xuất ra con người - lực lượng sản xuất. Những vai trò tái sản xuất bao gômg: sinh con, nuôi con, chăm sóc các thành viên trong gia đình đặc biệt là người già và trẻ em. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này chủ yếu do phụ nữ đảm nhận. - Vai trò cộng đồng: là hoạt động diễn ra ở cộng đồng như làng xã, thôn bản nhằm duy trì ổn định quan hệ xã hội trong cộng đồng đó. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này phụ nữ ít tham gia.2.6 Khái niệm đồng tính luyến ái* Phân biệt một số thuật ngữ - Heterosexual - Dị tính ái( gốc từ Hy Lạp - heteros): dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với người khác giới.- Bisexual - dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với cả hai giới ( gốc từ bi - hai).- Transgenderist- dùng để chỉ những người có hành vi khác với giới của mình. Như nam giới nhưng lại có cách phục trang, ứng xử, phong cách như nữ giới và ngược lại.- Transsexual - xuyên giới tính: dùng để chỉ những người sống hoàn toàn khác với giới "trời cho" của mình.- Lưỡng giới - dùng để chỉ những người bẩm sinh có cả hai cơ quan sinh dục nam và nữ và mang trong mình những yếu tố gen, hoócmôn của cả hai giới. Đến một thời điểm nào đó do sự phát triển của cơ thể và đôi khi là do sức ép từ môi trường bên ngoài (gia đình, xã hội) bắt buộc họ phải có sự lựa chọn một giới tính và giới.Từ điển Bách Khoa Việt Nam tập 1 đã đưa ra định nghĩa về đồng tính luyến ái như sau:" Là quan hệ luyến ái, tình dục giữa những người cùng giới tính, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Trên thực tế thường gặp đồng tính luyến ái giữa nam với nam, ít gặp ở nữ hơn. Đồng tính luyến ái tồn tại từ lâu ở các nước phương Tây, có nơi chấp nhận như hợp pháp. Gần đây, được dư luận xã hội chú ý vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây lan tràn AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)".Homosexual (gốc từ Hy Lạp homos - cùng) là thuật ngữ dùng để chỉ những người đồng tính luyến ái - những người chỉ quan hệ tình dục với những người cùng giới với mình. Hiện tượng đồng tính luyến ái hay còn gọi là tình dục đồng giới là sự hấp dẫn tình cảm và tình dục giữa những người cùng giới - nam với nam, nữ với nữ. Những người đồng tính luyến ái nam trong tiếng Anh được gọi là gay. Còn những người đồng tính luyến ái nữ là lesbian.* Khía cạnh bệnh lý, sinh học:Về khía cạnh bệnh lý, có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhưng những nhà khoa học dường như đều nhất trí rằng đồng tính luyến ái là bẩm sinh chứ không phải mắc phải. Người đồng tính luyến ái chẳng có gì khác so với người bình thường ngoại trừ những lệch lạc về định hướng tình dục. Các nhà bệnh lý học tâm thần xếp người đồng tính luyến ái vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc tình dục. Họ được coi là "thiểu số tình dục".Là một loại bệnh tâm thần, đồng tính luyến ái cần hội tụ 3 điều kiện:- Có tính chất cưỡng chế, dù có ý thức hay không, họ cũng không thể cưỡng lại được.- Chủ yếu ở nam giới(nhưng hiện nay cũng đã có xuất hiện nhiều ở giới nữ).- Xuất hiện sau tuổi trưởng thành.* Khía cạnh tâm lý:Ngoại trừ nhóm người đồng tính luyến ái do yếu tố bẩm sinh thì một số lượng không nhỏ trong nhóm đối tượng này có biểu hiện đồng tính luyến ái do những nguyên nhân về tâm lý.- Thứ nhất, đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp, lệch lạc. Một gia đình quá hà khắc và gia trưởng hay cách sống không lành mạnh có thể dẫn đến những tổn thương về tâm lý trong đứa trẻ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân cách và giới của đứa trẻ khi trưởng thành. Và đặc biệt là nội dung, cách thức giáo dục giới tính trong gia đình còn chưa được quan tâm đến một cách đúng đắn.- Thứ hai, đó là sự lạm dụng tình dục với trẻ em, đặc biệt là của người cùng giới với chúng. Điều này tạo nên một trạng thái ám ảnh suốt thời thơ ấu. Và khi trưởng thành, nó có thể trở thành một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính luyến ái.* Khía cạnh cá nhân và xã hội:Theo các nhà nghiên cứu hầu hết các hiện tượng đồng tính luyến ái mà người ta ngộ nhận thường do yếu tố môi trường, bản thân chứ ít khi là do bẩm sinh.- Thứ nhất : do sự tò mò của bản thân. Hiện tượng này phổ biến ở lứa tuổi thanh niên, khi hiểu biết còn chưa đầy đủ nhưng lại dễ bị cuốn hút bởi những điều mới lạ.- Thứ hai: do sự lôi kéo hoặc đua đòi. Dư luận xã hội về vấn đề này càng được mở rộng càng làm nảy sinh một số lượng người đồng tính luyến ái "dởm", a dua theo bạn bè. Họ coi đây là một thứ "mode" chứ không phải do bản chất. Và cũng không ít những trường hợp những người bình thường tự biến mình thành người đồng tính luyến ái vì lợi ích kinh tế hay những lợi ích khác.- Thứ ba: do ảnh hưởng của luồng văn hoá nước ngoài. Nước ta từ khi mở cửa, giao lưu kinh tế đồng thời cũng bắt buộc phải " giao lưu" với những luồng văn hóa nước ngoài mà không ít trong số đó kém lành mạnh, đi ngược lại với những quan niệm, thuần phong mỹ tục vốn có. Sự ảnh hưởng của văn hoá có thể nhìn nhận rõ ràng qua cách sống, cách tiêu dùng văn hoá của người dân đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Văn hóa nước ngoài với cái nhìn khá "thoáng" về các vấn đề giới tính hay tình dục dễ dàng ảnh hưởng đến nhóm đối tượng còn chưa có nhiều hiểu biết và năng lực đánh giá này.* Khía cạnh xã hội học:Với cách tiếp cận xã hội học thì đồng tính luyến ái có thể được coi là một hiện tượng lệch chuẩn. Bởi lối sống của người đồng tính luyến ái đi ngược lại với những quan niệm đạo đức xã hội cũng như luật pháp của một số nước, nghĩa là trái với những chuẩn mực tồn tại trong xã hội. Durkhiem trong cuốn "Các quy tắc của phương pháp nghiên cứu xã hội học" đã đưa ra quan điểm: sai lệch là tiền đề của biến đổi xã hội. Hiện tượng đồng tính luyến ái đã tạo ra những thay đổi trong quan niệm của một số nước như chấp nhận họ như những người bình thường, một giới tính thứ ba. Hà Lan và một bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã cho phép người đồng tính luyến ái được kết hôn, nghĩa là đã có sự chấp nhận của luật pháp.2.7 Khái niệm lệch chuẩn:* Chuẩn mực là tổng số những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng lời, bằng ký hiệu hay bằng các biểu trưng cho hướng cơ bản đối với các hành vi của thành viên trong xã hội. Những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc xã hội đó xác định rõ cho mọi người những việc nào nên làm và cần phải xử sự như thế nào cho đúng trong các tình huống xã hội khác nhau. Chuẩn mực thực hiện chức năng liên kết điều chỉnh, duy trì quá trình hoạt động của xã hội như là hệ thống của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân. Phạm vi của chuẩn mực là rất rộng.Trong cuốn" Những quy tắc của phương pháp xã hội học",E .Durkhiem đưa ra quy tắc đòi hỏi nhà nghiên cứu xã hội học phải phân biệt được cái chuẩn mực, cái "bình thường" với các dị biệt, cái " không bình thường" vì mục tiêu sâu xa của khoa học xã hội học là tạo dựng và chỉ ra được những gì là mẫu mực, tốt lành cho cuộc sống của con người. Theo Durkhiem thì những cái bình thường, cái chuẩn mực là cái thường gặp, cái chung, cái trung bình, cái điển hình của xã hội. Những gì lệch chuẩn là dị biệt, không bình thường. Với cách nhìn như vậy đồng tính luyến ái chính là một hiện tượng lệch chuẩn bởi nó chỉ là một hiện tượng của một nhóm nhỏ trong xã hội, một lối sống khác thường.3. Các hướng tiếp cận lý thuyết3.1 Lý thuyết xã hội hoá vai trò giới R. Stark đưa ra luận điểm " Xã hội hoá là quá trình cá nhân học đóng vai trò xã hội của mình". Do vậy xã hội hoá vai trò giới có thể hiểu là quá trình nam và nữ học hỏi cách đóng vai trò xã hội phù hợp với giới của mình: phụ nữ hay nam giới. Theo lý thuyết xã hội hoá vai trò giới, vai giới, tương quan giới là kết quả của quá trình xã hội hoá cá nhân. Các cấu trúc hành vi, tình cảm và thái độ đặc thù cho mỗi giới đã có sẵn trong xã hội trước khi đứa trẻ chào đời. Và từ khi lọt lòng cho đến lúc mất đi con người không ngừng tiếp thu và làm theo các cấu trúc giới đang tồn tại một cách khách quan tuỳ theo giới tính của mình. Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá vai trò giới cũng giống quá trình xã hội hóa cá nhân: gia đình, nhà trường, trưởng thành. Những người theo lý thuyết nhấn mạnh đến giai đoạn gia đình vì bản sắc giới tính định hình từ giai đoạn này. Sức ép giáo dục rất mạnh đối với đứa trẻ trong việc nhận diện giới tính như lựa chọn đồ chơi, quần áo, cử chỉ hành vi phù hợp với một bé trai hay bé gái. Đây cũng là giai đoạn xã hội hoá cá nhân cơ bản theo quan điểm của T. Parson và Andrieva.3.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của H.Mead và BlumerĐây là một lý thuyết rất quan trọng trong hệ lý thuyết về tương tác xã hội. Theo hai tác giả này thì hành vi của con người là những phản ứng đáp lại hành vi của người khác. Thực chất con người tồn tại trong một thế giới mà đối tượng và ý nghĩa của nó chỉ xuất hiện trong tương tác giữa các cá nhân. Cá nhân tạo ra các nhóm xã hội nhờ vào sự liên kết giữa họ về các biểu trưng. Và sở dĩ con người giao tiếp được với nhau trong một tương tác xã hội nào đó là vì họ có cùng chung một hệ thống biểu trưng nào đó. Biểu trưng có thể tồn tại ở dạng ngôn ngữ viết, nói hoặc cả những ngôn ngữ không thành lời.Khi một cá nhân đưa ra một thao tác, họ đã có sự cân nhắc về ý nghĩa của thao tác, được gắn vào mục tiêu dưới dạng hình tượng trong ý thức của chủ thể. Nếu trong tương tác, ý nghĩa của thao tác không được đối tác chấp nhận hoặc đánh giá không tương ứng về ý nghĩa mà chủ thể đã đặt ra thì lập tức nó sẽ được điều chỉnh phù hợp từ bên trong. Và quá trình đó sẽ lặp đi lặp lại cho đến khi chủ thể nhận thức cho rằng đã phù hợp với biểu trưng của một chủ thể hành động khác thì nó mới được lặp lại. Khi được lặp lại, nó được nâng cao lên một bước về ý thức và được đối tức tiếp nhận theo một cách nào đó. Và kết quả là chủ thể lại điều chỉnh nó lần thứ hai. Cứ như vậy, giữa các chủ thể sẽ hình thành nên một biểu trưng chung, có ý nghĩa chung tương đối bền vững. Rõ ràng tồn tại một sự chi phối giữa những biểu trưng chung của nhóm với các biểu trưng cá nhân. Cá nhân có thể có những cách đánh giá, cách ứng xử riêng nhưng dường như vẫn phải có sự đồng điệu giữa chúng với biểu trưng của nhóm. Bởi đó chính là cơ sở cho sự hoà nhập của cá nhân với nhóm, nhờ đó cá nhân được chấp nhận như một thành viên và nhóm mới phát triển. CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊKẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:1.Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đềSự phát triển hay nói chính xác hơn là ngày càng có nhiều người đồng tính luyến ái công khai lối sống khác thường của mình đã thu hút sự chú ý của dư luận xã hội cũng như của các nhà nghiên cứu. Bởi việc tìm hiểu bản chất cũng như nguyên nhân của hiện tượng này giúp ích rất nhiều cho việc đưa ra những giải pháp hạn chế những ảnh hưởng của nó đồng thời giúp cộng đồng có được một cách nhìn cảm thông và chia sẻ hơn với nhóm xã hội bất thường này.Trên thế giới, những nghiên cứu chính thức và tập trung về giới đồng tính luyến ái được tiến hành rộng rãi nhằm cung cấp những hiểu biết về mọi mặt cuộc sống của họ. - Violence against lesbians and gaymen - David Comstock . Đây là một nghiên cứu tập trung về những vấn đề mà người đồng tính luyến ái gặp phải trong cuộc sống. Tác giả đưa ra những số liệu về tệ nạn sử dụng bạo lực cũng như sự phân biệt đối xử đối với người đồng tính luyến ái tại Hợp chủng quốc Hoa kỳ qua nghiên cứu năm 1992. - Sociology of marriage and the family (gender, love and property) - Scott Coltrane and Randall Collins - NXB Wadsworth/ Thomson Learning 2001. Cuốn sách xã hội học về hôn nhân và gia đình này đã đề cập đến rất nhiều vấn đề về mọi mặt của đời sống hôn nhân cũng như các vấn đề về giới tính. Trong đó đồng tính luyến ái cũng được đề cập. Chủ yếu nghiên cứu làm sáng tỏ sự xuất hiện và phát triển của hiện tượng này trong đời sống cá nhân, cách nhìn nhận của cộng đồng về nó.Dù sao với một cái nhìn thoáng hơn, mạnh dạn do đặc thù lối sống và quan niệm nên những nghiên cứu về đồng tính luyến ái ở phương Tây xuất hiện đa dạng và sâu sắc.Còn ở Việt Nam , cho dù đồng tính luyến ái không còn xa lạ với xã hội nhưng việc nghiên cứu nó chính thức và sâu rộng còn rất ít. Đa số báo chí đề cập đến đồng tính luyến ái như một hiện tượng mới nổi lên, khác thường với quan niệm xã hội hay chỉ tập trung vào một số nhóm xã hội cụ thể mà chưa đi sâu cung cấp những kiến thức cơ bản về hiện tượng này. Điều này gây nhiều khó khăn cho việc nhận thức về bản chất cũng như nguyên nhân của hiện tượng.- Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam - BS. Trần Bồng Sơn - NXB Trẻ 2002 Đây là một cuốn sách đi sâu vào những kiến thức khoa học về giới tính. Vấn đề đồng tính luyến ái cũng là một trong những nội dung nghiên cứu của nó. Qua đó người đọc có thể thu được những hiểu biết về nguyên nhân, bản chất của đồng tính luyến ái cũng như cách giải quyết đối với hiện tượng này.- Tạp chí AIDS và cộng đồng - Uỷ ban thường trực phòng chống AIDS quốc gia ( số 1-12-2000).Trong tạp chí này, đồng tính luyến ái được nhắc đến như một nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng căn bệnh HIV/AIDS, đặc biệt là với nhóm đồng tính luyến ái nam.Việc nghiên cứu hiện tượng đồng tính luyến ái dưới góc độ khoa học cũng như xã hội là rất cần thiết. Bởi nhờ đó, cộng đồng sẽ có những hiểu biết để tìm cách giải quyết cũng như xác định một thái độ thích hợp với những người thuộc nhóm xã hội này. 1.2 Tổng quan về địa bàn nghiên cứuTrường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn và Đại học Tự nhiên đều là thành viên thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội. Cả hai trường cùng nằm trên địa bàn phường Thượng Đình - Quận Thanh Xuân. Đây là hai trường thuộc trường Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ nên vẫn được coi như những cơ sở đào tạo công lập có uy tín trong hệ thống đào tạo đại học của nước ta.Nhóm ngành mà trường Đại học KHXHNV tập trung đào tạo là khoa học xã hội. Do vậy tỷ lệ sinh viên nữ trong trường cao hơn so với sinh viên nam. Có 10 khoa và một bộ môn với hàng nghìn sinh viên theo học mỗi năm.Trường Đại học Tự Nhiên gồm 13 khoa với nhiều ngành học khác nhau. Cũng do đặc thù đào tạo là khoa học tự nhiên nên số sinh viên nam trong trường chiếm tỷ lệ cao hơn sinh viên nữ.Sinh viên của hai trường có xuất thân từ nhiều địa phương trong nước nên nơi cư trú của họ chủ yếu là ký túc xá và nhà trọ tại những khu vực xung quanh trường như Thanh Xuân, Kim Giang, Nhân Chính, Phùng Khoang. Số sinh viên của cả hai trường cư trú tại ký túc xá Mễ Trì là khoảng 2100 người.Hai trường đều có tổ chức Đoàn và Hội sinh viên phát triển do vậy sinh viên đều được cung cấp khá đầy đủ thông tin về những hiện tượng xã hội mới.2. Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và mức độ phổ biến qua điều tra tần suất gặp :* Điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam và những ảnh hưởng tới cuộc sống cũng như nhận thức của sinh viên:Nền kinh tế thị trường đã đem lại những biến đổi cho đời sống người dân nước ta về mọi mặt. Không những được đảm bảo về mặt vật chất, các thành viên xã hội còn có cơ hội phát triển về tri thức cũng như hưởng thụ những giá trị tinh thần. Tuy nhiên sự phát triển nào cũng mang trong mình yếu tố tích cực và tiêu cực. Đời sống sung túc hơn nhưng dường như những nền tảng đạo đức, văn hoá xã hội lại dần mai một. Tệ nạn xã hội ngày càng có xu hướng tăng về số lượng cũng như độ tinh vi. Ma tuý, mại dâm đang làm đau đầu những nhà quản lý, lập pháp và hành pháp.Sự phức tạp của thực tế khiến cho những thành viên của xã hội Việt Nam hiện đại đặc biệt là giới thanh niên - sinh viên có lối sống cũng như cách nhìn nhận, đánh giá khác với thế hệ cha anh. Sinh viên Việt Nam ngày càng năng động hơn. Không chỉ học trên giảng đường, họ dấn mình vào cuộc sống để thu thập tri thức thực tế. Những quan niệm cũng như nhận thức của sinh viên với các hiện tượng xã hội bị chi phối bởi cách nhìn hiện đại, bởi văn hoá nước ngoài. Sự phát triển của hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một hệ quả của biến đổi kinh tế - văn hoá - xã hội. Là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao đồng thời trưởng thành trong điều kiện phát triển về kinh tế cũng như phong phú về văn hoá, sinh viên chắc chắn sẽ có hiểu biết cũng như nhìn nhận và đánh giá về đồng tính luyến ái theo cách riêng của mình.2.1 Mức độ biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên


Page 3