Phantich.com.vn mang đến bài phân tích chi tiết, hay về nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Các bạn có thể tham khảo bài văn mẫu dưới đây theo từng luận điểm về diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng để sáng tạo ra những bài văn của riêng mình đạt chất lượng, để lại ấn tượng.
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn về nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” được sáng tác năm 1955 đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói lịch sử năm 1945. Ban đầu, truyện ngắn này có tên ban đầu là Xóm ngụ cư. Truyện ngắn này đã chạm đến trái tim của người đọc, khi miêu tả chân thực về cuộc sống của người dân giữa nạn đói khủng khiếp, người chết như ngả rạ; vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, ca ngợi tình yêu thương, vẻ đẹp người dân Việt Nam. Bên cạnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chi tiết, chân thực, đặc sắc diễn biến tâm trạng Tràng – con trai bà cụ Tứ. Phân tích nhân vật Tràng cho thấy dù trong hoàn cảnh cùng quẫn, đói khát, nhưng Tràng – đại diện cho người lao động nghèo vẫn khao khát tình yêu, hạnh phúc gia đình và lấp lánh niềm tin vào cuộc sống, tương lai phía trước.
Thân bài phân tích nhân vật Tràng
- Luận điểm 1: Giới thiệu nhân vật Tràng
Tràng là một người lao động nghèo khổ, hơi bất bình thường, lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà”, “lưng to bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Anh sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già. Anh làm công việc đẩy xe bò mướn để kiếm sống. Dù nghèo khổ nhưng anh vô cùng tốt bụng, rất mực yêu trẻ con, thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Cuộc sống lao động vất vả nghèo khổ đã hằn lên ngoại hình của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới ngòi bút tả thực của Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên thật đáng thương, tội nghiệp đến thắt lòng.
- Luận điểm 2: Tình huống “nhặt” được vợ của Tràng
Tâm trạng của Tràng biến đổi từ khi bỗng “nhặt” được vợ ngoài đường trong nạn đối 1945. Lần gặp đầu tiên, lời nói đùa của Tràng chứ không hề có tình ý với cô gái đẩy xe cùng mình. Bởi hắn chẳng bao giờ nghĩ một người nghèo như Tràng lại có vợ cả. Ấy thế mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…”. Ấy thế mà, người phụ nữ ra đẩy ra với hắn. Hôm sau gặp lại, hắn đãi người đàn bà ấy 4 bát bánh đúc và đồng ý theo hắn về làm vợ. Tâm trạng lúc đó của Tràng lúc đó “khiến hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.
- Luận điểm 3: Diễn biến tâm trạng và hành động của Tràng khi “nhặt” vợ
Diễn biến tâm trạng của Tràng diễn ra từ bất ngờ cho đến vui vẻ, hạnh phúc, nhưng không thiếu nỗi lo về phía trước. Ở lần gặp 2, khi bị người đàn bà ấy mắng, Tràng toét miệng cười và mời ăn dù mình cũng không dư giả gì. Hành động đó chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành, tốt bụng, thương người.
Đặc biệt khi người đàn bà quyết định theo mình về thì Tràng bắt đầu thấy lo vì phải lo thêm miệng ăn giữa thời buổi người chết ngoài đường như ngả rạ. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng không phải bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ diện, mà đó là thái độ dung cảm, biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy lên sự khát khao hạnh phúc, yêu thương con người cùng cảnh ngộ như mình.
Tràng nghiêm túc với quyết định của mình. Hắn đưa người “vợ nhặt” lên chợ tỉnh mua đồ. Tràng rất chu đáo và quan tâm đến người đàn bà của mình. Thế mới thấy, trong lúc nghèo đói như vậy, tình người thật đáng quý.
Kim Lân đã thành công khi miêu tả tâm trạng của Tràng ở nhiều cung bậc cảm xúc. Trên đường về, vẻ mặt Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thấy hãnh diện, hạnh phúc khi cưới được vợ giữa thời buổi khó khan như thế này. Vì tâm trạng vui, hãnh diện nên Tràng mua dầu về thắp để khi vợ về đến nhà thì căn nhà trở nên sáng sủa.
Khi về đến nhà, Tràng “xăm xăm” dọn dẹp sơ qua, “ngượng nghịu” thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của người đàn bà. Sự chân thật của Tràng đến mộc mạc, khiến người đọc càng thêm thương cảm và dành sự cảm mến dành cho nhân vật này. Tràng cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người đàn bà này thấy gia cảnh của mình sẽ bỏ đi. Bản than Tràng thấy “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi.
Diễn biến tâm trạng của Tràng được mô tả chân thực khi diễn tả sự sốt ruột đợi bà cụ Tứ về để thưa chuyện. Tràng hiểu rằng cần phải xin phép ý kiến của mẹ, sợ mẹ không đồng ý. Điều này chứng tỏ Tràng là người con biết lễ nghĩa. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng thưa chuyện một cách nghiêm túc, trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ, long Tràng thở phào nhẹ nhõm.
- Luận điểm 4: Tâm trạng sáng hôm sau khi có vợ
Kim Lân đã miêu tả tâm trạng thay đổi của Tràng qua việc miêu tả cảnh vật vào sáng hôm sau khi có vợ. Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà. “Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, vợ quét lại cái sân… Khuôn mặt Tràng tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” dù đêm hôm qua hắn nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Từ những điều giản dị, nhưng tràn đầy hạnh phúc như vậy về cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng dưng thấy rõ bổn phận, trách nhiệm trong gia đình để gây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.
Bữa ăn sáng hôm đó tuy trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phất phới”.
Từ một người đàn ông thô kệch, Tràng đã thay đổi tâm trạng, suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin sẽ vượt qua hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Điều đó cho chúng ta thấy rõ, dù trong hoàn cảnh nào, đói kém có rình rập tính mạng, thì con người vẫn khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc của một gia đình, thậm chí còn bùng lên mãnh liệt hơn.
Kết bài phân tích nhân vật Tràng
Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả chi tiết diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo, để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng, tính cách một cách rõ nét, chân thực. Với nghệ thuật dẫn truyện sáng tạo, ngôn ngữ bình dị, gần gũi, ông đã chạm đến tâm khảm của người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật, đồng thời lấy đi nước mắt về cuộc sống cơ cực của người dân lao động Việt Nam trong hoàn cảnh nạn đói lịch sự năm 1945. Nhân vật Tràng dù nghèo khổ nhưng tràn đầy ấm áp, yêu thương, niềm hy vọng, lạc quan vào cuộc sống, vào sự thay đổi xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới bạn đọc.
Câu hỏi xoay quanh văn 12
Soạn văn 12 tập 1 ngắn nhất
Soạn văn 12 tập 2 ngắn nhất
Bài soạn văn lớp 12 siêu ngắn
Giải môn Giải tích lớp 12
Câu hỏi xoay quanh Địa lý 12
Soạn công dân 12 cực chất
Giái công dân 12 cực chất
Giải môn Giáo dục công dân lớp 12
Lai lịch, ngoại hình, Tính cách, Số phận của nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt Lai lịch, ngoại hình -Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về. -Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh. Tính cách
Tràng là người vô tư, nông cạn.
Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.
- Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình. - Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí. - Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.
- Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra. - Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới… Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới
Số phận
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh. - Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.
Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao…
Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân
1 – Lai lịch, ngoại hình
– Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế. – Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.
3. Số phận
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
5. Kết luận
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
2.Tính cách
– Khi mới gặp Tràng: +Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. +Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn! – Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng: + Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng. + Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người. + Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ. + Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế! Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
– Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ). – Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
Phân tích hình ảnh Nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt
Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc, sắc mà ta thường gặp ở cây bút viết truyện ngắn sở trường về người nông dân Việt Nam: nhà vần Kim Lân.
Phân tích tâm lí nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân
Tác giả đã khéo giấu đi cái không khí ảm đạm thê lương ngày thường chăng? Theo tôi thì không. Chính lòng mẹ đang vun vén cho hạnh phúc mới của con đấy. Dù chẳng trọn vẹn nhưng cũng phần nào gieo vào lòng đôi vợ chồng trẻ niềm tin vào ngày mai. Một ngày mai tươi sáng hơn đang chờ họ. Mẹ nghĩ thế và chắc chắn sẽ là như thế! Chính tình thương của mẹ đã mang đến hạnh phúc cho Tràng , đem lại lối thoát cho vợ Tràng và tất yếu tình thương ấy sẽ mãi mãi nâng đỡ họ.