Ở tây nguyên người gia-rai tập trung ở đâu

Người Gia Rai nói tiếng Gia Rai, một ngôn ngữ thuộc phân nhóm ngôn ngữ Chăm của ngữ tộc Malay-Polynesia trong ngữ hệ Nam Đảo. Người Gia Rai thuộc nhóm chủng tộc Austronesia.

Tại Việt Nam họ là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Dân số của dân tộc này khoảng 317.557 người năm 1999[2] và 411.275 người năm 2009[1].

Tại Campuchia họ sống ở tỉnh Ratanakiri với dân số cỡ 20.800 theo “2008 Cambodian census”.

Người Gia Rai là một nhánh lớn của tộc người Rang Đê cổ hay còn gọi là người Ê Đê cổ được ghi chép khá nhiều trong các bia ký Chăm Pa, sự tấn công của đế quốc Mông Cổ, sau này là Nam Tiến của người Việt đã đẩy bộ phận người Chăm Pa lên vùng bình nguyên Cheo Reo hòa hợp với người Ê đê cổ tạo ra nhóm tộc người tự gọi là Anak Jarai tức con cái của Jarai.Trong văn hóa và tính cách của người Gia Rai có nhiều yếu tố Chăm Pa trung đại so với người Ê đê chịu ảnh hưởng đứt gãy của yếu tố Lâm Ấp Chăm Pa cổ đại. Người Giarai còn giữ được yếu tố ngôn ngữ Rang Đê cổ đó là ngôn ngữ đa âm hơn so với người Ê Đê láng giềng.
Người Gia Rai (Jrai) sinh sống và cư trú chủ yếu tập trung ở tỉnh Gia Lai (90%), một bộ phận ở tỉnh Kon Tum (5%) và phía bắc tỉnh Đăk Lăk (4%). Khoảng vài ngàn người Gia Rai sinh sống tại khu vực Ratanakiri, Campuchia nhưng chưa có số liệu chính thức từ Viện thống kê quốc gia Campuchia.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Gia rai ở Việt Nam có dân số 411.275 người, cư trú tại 47 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Gia rai cư trú tập trung tại tỉnh Gia Lai (372.302 người, chiếm 29,2% dân số toàn tỉnh và 90,5% tổng số người Jrai tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Kon Tum (20.606 người), Đắk Lắk (16.129 người), [1]. Đây là dân tộc bản địa có số dân đông nhất Tây Nguyên. LỊCH SỬ VÀ TÊN GỌI. Vào năm 1471 Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép về sự kiện người Chămpa đầu hàng quân Đại Việt của Vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc sau, đứng xa trông thấy toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt thành, bèn bắn luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ phá cửa đông thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma. Lê Thánh Tông sai trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở Đại Việt không có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời rằng đó là đồ của nước Chiêm từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âm Lịch (1471). Cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Rang đê có trước, từ đó hình thành ra nhóm tộc người mới Anak Jarai.Nhóm Rang Đê vùng thung lũng sông Ba tự gọi mình là Ană Garai. Ană Pô Garai chính là cụm danh xưng Ană Pô Kurung Garai (Pô Krung Grai là cách gọi tôn xưng thái tử Champa là Harijit (Rochom Mal) lãnh đạo người Rang Đê đánh đuổi Mông Cổ. Kurung hay Krung trong ngôn ngữ Rang Đê và Malay cổ có nghĩa là thủ lĩnh. Dần dần, Pô Krung Garai hay Pô KLong Garai phiên âm thành Jarai. Jarai tách khỏi khối bộ tộc Rang Đê để tự nhận mình là Anăk Jarai với ý nghĩa là những đứa con của Vua Chế Mân (Pô Krung Grai, Pô Klong Grai hay anak Jarai,DRai) Tiểu quốc Jarai (tên gọi khác: Ala Car Pơtao Đêgar/ Dhung Vijaya/Nam Vijaya / Nam Bàn / Nam Phan / Nam Phiên/Chămpa Thượng) là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia Rai và người Ê Đê hình thành từ khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra thành các bộ tộc độc lập vào khoảng cuối thế kỷ 19.Tiểu quốc này được cai trị bởi các vị tiểu vương mà người Việt gọi là Thủy Xá – Hỏa Xá tức là Pơtao Apui – Pơtao Êa.Theo tương truyền các vị Vua là hiện thân của Thần Gươm Y Thih (nhân vật trong các truyền thuyết của người người Ê đê và Jarai. Một tài liệu khác ghi là 20 “đời vua” tiểu quốc Jrai, là người kế tục giữ gươm thần do chàng Y Thih để lại. Có kiến khác cho rằng gươm thần của các Pơ tao thực ra là các bảo vật truyền ngôi của hoàng gia Chăm Pă sau khi Lê Thánh Tông tiêu diệt thành Vijaya (Đồ bàn, Bình Định). Xét về hình thái tộc người Rhade (Ê Đê) lui về phía nam và cùng các nhóm Jarai thực ra la một dân tộc Rang Đê], hai nhóm tộc người này bị phân li do nguyên nhân lịch sử mà trong tiếng Jarai gọi là thời kỳ Phara. Nghĩa là cuộc chia ly anh em.

Trên đây là một số thông tin cơ bản về dân tộc GIa Rai. các bạn có thể tham khảo thêm ở Wikipedia.org.

24/12/2021 06:04

Gắn với các lễ hội dân gian, mỗi DTTS ở tỉnh ta đều có cây nêu, cơ bản mang những nét tương đồng song cũng chứa đựng sự độc đáo riêng, làm thành bản sắc, niềm tự hào của mỗi cộng đồng. Cây nêu của người Gia Rai ở làng Ba Rgốc, xã Sa Sơn, huyện Sa Thầy thể hiện nét đẹp đa dạng như thế.

Theo già A Bleng ở làng Ba Rgốc, cây nêu của người Gia Rai ở vùng núi gần biên giới phía Tây của tỉnh được coi là vật thiêng, là linh hồn lễ hội. “Không thể tùy tiện muốn làm là làm được đâu! Chỉ vào những dịp có lễ hội lớn ở nhà rông hay lễ hội có ăn trâu, ăn dê của làng và gia đình thì mới dựng cây nêu” - già A Bleng cho hay. Cây nêu của người Gia Rai khá đa dạng về hình dáng, được dựng lên trong những bối cảnh khác nhau, mang ý nghĩa khác nhau.

Chúng tôi về Ba Rgốc đúng lúc bà con tập trung làm cây nêu để chuẩn bị cho lễ cầu an, chuẩn bị bước vào mùa rẫy mới. Ở sân nhà rông, già làng A Sưp trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn các bạn trẻ khẩn trương hoàn tất các công đoạn cần thiết như gốc nêu, thân nêu, cành nêu trước khi cây nêu được dựng lên. Bên hông nhà có bóng mát của một người dân gần đó, ông A Dưm (62 tuổi) ngồi tỉ mỉ quét sơn lên chiếc khung ngang bằng hai màu đen, đỏ. Đen, đỏ, trắng là ba màu chủ đạo thường được dùng để vẽ lên cây nêu cũng như trang trí trong nhà rông, nhà sàn và các vật dụng lên quan đến lễ hội của người Gia Rai.

Ở tây nguyên người gia-rai tập trung ở đâu
Cây nêu “cao” trong lễ mừng lúa mới của dân làng Ba Rgốc. Ảnh: T.N

Theo già A Lem – một người am hiểu văn hóa truyền thống và rất có uy tín trong cộng đồng, cây nêu gồm hai loại chính, dù là nêu “cao” hay nêu “thấp” đều được làm từ các nguyên liệu chủ yếu gồm: Cây le (a le), cây lồ ô (drao), dây mây (ha vay). Cây nêu cao từ 5-7m đến trên 10m, ở giữa có cột chính cao vút được trang trí bằng các vòng tròn gắn nan bông tượng trưng cho bông lúa (brui). Trên ngọn cây nêu được gắn hình chùm mũi tên nhỏ hướng lên trời cao. Mừng lúa mới gắn với ăn trâu, ăn dê trong mỗi gia đình hay quy mô cộng đồng tại nhà rông thì đều dựng cây nêu này. Cây nêu thấp (phổ biến 3-4m), trụ chính ở giữa chỉ cao hơn thân nêu một đoạn nhưng không có ngọn cao, thường được dựng trong những lễ hội như mừng nhà rông mới, sửa nhà rông, cầu an, mừng nước giọt, lễ ăn trâu trong gia đình…

 Với người Gia Rai, đơn giản, dễ làm và gần gũi nhất là những cây nêu thấp, phổ biến dùng trong các lễ hội tại nhà rông và ở gia đình. Thân nêu dựng trong lễ ăn trâu gọi là “gâng” pao, cây nêu dựng trong lễ mà con dê là vật hiến tế gọi là “gâng” pe. Gâng được làm bằng 4 cột gỗ đẽo tròn, đường kính gốc cột chừng 10-15cm, được điểm tô bằng những đường viền màu đen, đỏ. Có khi, thân nêu cũng được làm tới 8 cột thể hiện sự vững chãi, sung túc. Gắn vào thân nêu là các dây nêu (lây la) được làm từ cây le nhỏ có dáng như những chiếc “cần câu” mềm mại. Thân nêu đẹp, sinh động và hấp dẫn nhờ trên những chiếc cần câu được gắn vào các hình nan bắt mắt như bông lúa (brui), nan dẹp (reng ech), nan đuôi cá (ku kreng)... Gốc nêu, ở chỗ nổi trên mặt đất, có gắn một đoạn dây buộc trâu (hay dê) một đầu hình chiếc thòng lọng được bện kỹ lưỡng, chắc chắn bằng dây mây, gọi là bró.

Ở tây nguyên người gia-rai tập trung ở đâu
Dựng cây nêu trong lễ ăn trâu. Ảnh: TN

Cây nêu cao ở giữa có ngọn chính được người Gia Rai dựng chủ yếu trong lễ mừng lúa mới. “Cách dựng cây nêu cao cũng tương tự như dựng cây nêu thấp, chỉ khác ở chỗ là từ tâm điểm của thân nêu tính từ gốc nêu lên, có một cột nêu chính cao vút được trang trí đẹp không thể thiếu nhiều hình nan brui” - ông A Oát (54 tuổi), trưởng thôn Ba Rgốc giải thích thêm. Cây nêu cao trong lễ mừng lúa mới thường cao 7-8m, có khi tới trên 10m. Trong đó, cột nêu được làm từ một cây lồ ô thẳng tắp được chọn rất kỹ, được trang trí theo hình vòng tròn gồm 8-9 tầng bằng những bông le chẻ chuốt xốp nhẹ, tượng trưng cho bông lúa tung bay.

Ngày trước khi dựng nêu, bà con đã tập trung chuẩn bị vật liệu và mất nhiều thời gian, công sức để làm hình nan trang trí. Lễ dựng cây nêu thường được tổ chức vào buổi chiều. Trước khi bắt tay vào việc, già làng cùng các vị cao niên trong trang phục dân tộc tập trung mọi người ở nhà rông. Già làng làm chủ lễ, tự tay cắt tiết gà, pha với rượu để sẵn.  Ông cùng một nam giới khỏe mạnh, có uy tín khác quỳ bên hố nêu đã được đào sẵn, giữ im lặng tuyệt đối. Dùng tấm choàng che kín, già làng cầm bát tiết gà quay tròn quanh hố nêu 6 vòng ngược chiều kim đồng hồ, sau đó quay lại một vòng rồi đổ xuống hố. Sau nghi lễ, các bạn trẻ được hướng dẫn lần lượt chôn 4 cột gâng cho chắc, dùng khung ngang (đa hơ gâng) để cân chỉnh, giữ thân nêu thật vững vàng, trước khi cắm những cành nêu đã được gắn hình nan, bông le vào.

Ngoài ra, người Gia Rai còn làm những “nhành nêu” cỡ nhỏ để trang trí, làm phong phú hơn sắc màu sự kiện văn hóa dân gian. Những nhành nêu này đơn giản được làm bằng những cành le, hay cây lồ ô được chẻ ra, dài chừng 2-3m. Trong đó, trước tiên phải kể đến là nhành nêu hình đuôi cá (ku kreng) gắn tấm nan hình nhái (ji krõ) đặc trưng cắm ở trước nhà rông, báo hiệu làng có lễ hội lớn. Bên cạnh đó là những nhành nêu với những tấm nan hình vuông, hình thoi (leng lep), bông bay (brui) cắm ở trong sân hay hàng rào như tín hiệu báo tin vui. Đáng lưu ý, các lễ hội có cúng dê, heo, gà không bắt buộc phải dựng cây nêu, nhưng vẫn không thể thiếu những cành nêu trang trí này.

Theo phong tục của người Gia Rai, sau khi dựng cây nêu, đêm đó, bà con thức “khóc trâu”, để đến sáng hôm sau mới chính thức bắt tay vào lễ “ăn trâu” và các nghi lễ đặc trưng của lễ hội chính. Vì vậy, tận tâm tận lực làm nên cây nêu thật đẹp, thật như ý chính là mong muốn đầu tiên của dân làng gửi gắm đến thần linh về cuộc sống an yên, no ấm, hạnh phúc.        

Thanh Như