Pháp quyền nhân nghĩa là gì

Giới thiệu sách

Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh

Bùi Quang Minh

07:20 CH @ Thứ Ba - 01 Tháng Hai, 2011

Tôi đã dự định giới thiệu với bạn đọc cuốn "Pháp quyền Nhân nghĩa Hồ Chí Minh" dày gần 800 trang - cuốn sách mà GS Vũ Đình Hòe sau nhiều lần lưỡng lự đã quyết tâm viết lúc đã về hưu (bắt đầu từ năm 1991 và hoàn thành tháng 7 năm 2004).

Chủ điểm của cuốn sách là "Nhà nước Pháp quyền", một chủ điểm hết sức quan trọng và hôm nay vẫn còn nóng hổi và ý nghĩa. Cuốn sách lại còn chứa đựng những điều tâm huyết của cả đời GS Vũ Đình Hòe - kẻ sĩ phụng sự lý tưởng rực cháy trong lòng từ thuở tráng niên, bất chấp mọi thăng trầm của cuộc đời

Nay được tin GS. Vũ Đình Hòe vừa mất, thọ 100 tuổi, xin được giới thiệu bạn đọc cuốn sách này tỏ lòng biết ơn tới tác giả.

Sách nói về nguồn gốc và sự cấu tạo của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tái hiện lại một phần chặng đường 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chắt lọc các tố chất của cách mạng, tinh luyện thành chất men tổng hợp có khả năng làm bùng sôi động lực quật cường ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Thông qua đó, chúng ta được biết rằng Bác Hồ đã đi rất nhiều nơi, tham khảo và đánh giá các ưu, khuyết điểm của cách mạng Pháp, Anh, Mỹ, Trung Hoa, Nga, để rồi quyết định chọn lựa con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì đây là con đường có lợi nhất cho người dân Việt Nam.

Quyển sách này gồm 3 thiên: Thiên A, Thiên B, Thiên C.

Thiên A gồm 4 chương đầu, nghiên cứu vấn đề: Nguồn gốc xã hội và lịch sử của Tư tưởng Pháp quyền Nhân nghĩa Hồ Chí Minh.
+ Nguồn gốc xã hội rộng liên quan đến vùng Nghệ Tĩnh và Bắc Trung Kỳ.
+ Nguồn gốc xã hội hẹp thuộc vùng làng quê và gia đình Bác Hồ.
+ Nguồn gốc lịch sử thuộc một thế kỷ đau thương 1847 - 1945 gây ra bởi thực dân Pháp.

Thiên B gồm 5 chương giữa, nghiên cứu vấn đề: sự cấu thành của tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Có 5 yếu tố cấu thành tư tưởng ấy.
+Yếu tố pháp quyền dân tộc và ảnh hưởng của tuyên ngôn độc lập của dân tộc Mỹ (1776).
+ Yếu tố pháp quyền Quân chủ lập hiến của Vương quốc Anh qua các cuộc cách mạng dân chủ đổ máu và không đổ máu.
+ Yếu tố nhân quyền. Dân quyền của Đại Cách mạng Pháp lay động cả Châu Âu, dưới lá cờ đỏ thắm Tự do - bình đẳng - bác ái, dần dần nhạt phai.
+ Yếu tố pháp quyền Công Nông của cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại; Chuyện chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Yếu tố pháp quyền Dân tộc Dân chủ Mưói của Cách mạng Trung Hoa trải qua hai lần hợp tác Quốc Cộng.

Thiên C gồm 5 chương cuối, tái hiện công trình nhẫn nại và sáng tạo, trải ra suốt 30 năm du khảo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh để chắt lọc các tố chất của cách mạng, tinh luyện thành chất Men tổng hợp có khả năng làm bùng sôi động lực quật cường ngàn đời của dân tộc Đại Việt ta.

Mục lục

Thiên A. Nguồn gốc xã hội và lịch sử của Tư tưởng Pháp quyền Nhân nghĩa Hồ Chí Minh
Chương 1. Quê hương Lam Hồng - đất đá soi quật cường
Chương 2. Dân khí đồng quê, sĩ khí kinh kỳ. Đau nhà, đau nước thúc giục rèn chí
Chương 3. Chớm nở ý thức pháp quyền: Quyền làm người, quyền dân tộc, chủ quyền dân tộc
Chương 4. Đất Việt! Hồn Việt!

Thiên B. Cấu thành của tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh
Chương 1. Bác Hồ dừng chân ở Mỹ cách mạng dân tộc và pháp quyền dân tộc dân chủ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Chương 2. Bác Hồ sang Vương quốc Anh - cái nôi của cách mạng dân quyền thời hiện đại
Chương 3. Bác Hồ ở Pháp, quê hương xứ sở Đại cách mạng Dân quyền châu Âu
Chương 4. Bác Hồ sang Nga - Quê hương "người cha", người thầy Leenin vĩ đại - cái nôi nóng hổi của cách mạng thế giới
Chương 5. Từ biên cương Hoa - Việt, tâm trí luôn hướng về đất Tổ, Nguyễn Ái Quốc lo chuẩn bị việc cứu quốc và góp sức... "Bình Thiên Hạ"

Thiên C. Các tố chất của cách mạng, tinh luyện thành chất Men tổng hợp có khả năng làm bùng sôi động lực quật cường ngàn đời của dân tộc Đại Việt
Chương 1. Phân tích, đánh giá Tố chất Dân quyền của Cách mạng Pháp mạnh đến đâu? Yếu đến đâu? Nguyên nhân - Hậu quả
Chương 2. Tố chất Công nông - có vai trò xúc tác cao nhưng... người vận dụng phải rất thận trọng
Chương 3. Tố chất Dân tộc trong Cách mạng Dân quyền. Tố chất Dân tộc và tố chất Dân quyền tương tác, tương hỗ nhau trong cách mạng Trung Hoa. Những bài học bổ ích: Ứng dụng và biến hóa thế nào?
Chương 4. Kiểm chứng tính bất biến và ý nghĩa cao cả của nhân nghĩa dân tộc Lạc Việt - Tố chất cơ bản của Cách mạng Việt Nam xưa và nay
Chương 5. Pháp quyền Nhân nghĩa Hồ Chí Minh bảo vệ và tăng cường hiệu năng của động lực "Chí Nhân Vĩ Đại Nghĩa Dân tộc"

Nguồn:Chungta.com

LinkedInPinterestCập nhật lúc:07:47 CH @ 01/02/2011

TS LÊ THỊ HẰNG

Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài đăng Tạp chí Lý luận chính trị số 524 (10-2021)

Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền tảng xây dựng Nhà nước mới và nền pháp quyền Việt Nam. Với trí tuệ và lòng yêu thương con người sâu sắc, trên nền tảng của truyền thống, đạo lý dân tộc, sự tiếp thu học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng pháp lý tiến bộ thế giới, Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán “pháp quyền nhân nghĩa”. Quan điểm pháp quyền với những nội dung cơ bản là sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức cách mạng; xây dựng nền pháp quyền dân chủ, vì con người; xây dựng nền pháp quyền, nhà nước pháp quyền mới của toàn dân.

Từ khóa: Hồ Chí Minh, pháp quyền nhân nghĩa, Mác - Lênin, pháp luật.

 

* PGS, TS. ĐOÀN MINH HUẤN Ủy viên Trung ương Đảng,

Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

TCCS - Vào lúc nhiều nơi trên thế giới vẫn bị bao phủ bởi chính trị cường quyền của chế độ phong kiến chuyên chế, thực dân bạo ngược hay cộng hòa tư sản thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa. Nhà nước cách mạng Việt Nam do Người sáng lập thể hiện đầy đủ diên cách và cốt cách của một thể chế dân chủ hiện đại, dựa trên nguyên tắc pháp quyền, có sức hấp dẫn đối với nhân dân, huy động, tập hợp và phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng, kiến thiết đất nước.

Pháp quyền nhân nghĩa là gì

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ảnh: Tư liệu (Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)

Chỉ một ngày sau khi tuyên bố trước quốc dân về nền độc lập dân tộc, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải sớm tổ chức cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để hình thành một bộ máy chính quyền được quyết định  bằng ý chí của nhân dân. Dù phải căng sức ứng phó với muôn vàn khó khăn, thách thức của “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tích cực, khẩn trương chuẩn bị và tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội (ngày 6-1-1946), thành lập Chính phủ chính thức, khẳng định tính chính đáng, hợp pháp của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập, có nhiệm vụ khẩn trương, tích cực xây dựng Hiến pháp, khẳng định chủ quyền của nhân dân và thực hiện quản lý đất nước bằng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946 đã thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng lập hiến, lập pháp của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lời nói đầu của Hiến pháp long trọng khẳng định: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ”(1). Hiến pháp xác định các nguyên tắc cốt lõi là: Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Nguồn sáng của thể chế dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa bắt nguồn từ tinh thần “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” (“Việt Nam yêu cầu ca”) và tư tưởng xây dựng một chính quyền của “dân chúng số nhiều” (“Đường Kách mệnh”) mà Bác Hồ đã khởi xướng từ những tháng năm tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng. Thể chế dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa trong buổi đầu khởi dựng Nhà nước cách mạng Việt Nam chính là sự tiếp nối tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đặt trong bối cảnh nhân dân ta còn khoảng 90% dân số mù chữ, cả dân tộc phải dồn sức chống thù trong, giặc ngoài, mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi tạo xây dựng thể chế dân chủ hiện đại, dựa trên nguyên tắc pháp quyền, thì đó quả là một tư tưởng vượt lên hoàn cảnh, vượt trước thời đại. Thể chế dân chủ ấy được xây dựng dựa trên niềm tin tuyệt đối của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được nuôi dưỡng bởi giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam vốn bị dồn nén trong thời kỳ thống trị của chủ nghĩa thực dân và bùng lên mạnh mẽ khi có tự do, độc lập. Đó là một thể chế mà cách thức tổ chức và vận hành là vì nhân dân; mỗi người dân đều ý thức được quyền của chính mình nằm chung trong quyền của dân tộc, tham dự vào công việc quản lý nhà nước, xây dựng chế độ mới bằng trách nhiệm cao cả, nghĩa vụ tự giác, tình cảm thiêng liêng, thể hiện trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Chính quyền cách mạng non trẻ được nuôi dưỡng bởi nguồn lực, sức mạnh của nhân dân, được cộng hưởng, nhân lên gấp bội khi mỗi người tự ý thức bổn phận, trách nhiệm vì quốc gia độc lập, vì dân tộc trường tồn. Tài chính khánh kiệt, ngân khố trống rỗng đã được bù đắp nhanh chóng bằng nguồn lực đóng góp tự nguyện của nhân dân thông qua “Tuần lễ vàng”. Thể chế dân chủ khiến các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực trong nhân dân được khơi thông, phát huy cao độ để phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi đồng bào ai có tài năng và sáng kiến, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ và Chính phủ sẽ nghiên cứu kỹ càng, nếu thực hiện được thì cho triển khai ngay. Trong một bài viết đăng trên báo Cứu quốc số ra ngày 14-11-1945, Người khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài”. Một năm sau, Người gửi thông điệp tìm người hiền tài đến khắp mọi vùng miền, địa phương: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”(2). Người yêu cầu các địa phương phải điều tra, báo cáo ngay cho Chính phủ biết những nhân tài chưa được trọng dụng (tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở), hạn một tháng phải báo cáo đầy đủ. Với tinh thần dân chủ và trọng dụng hiền tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được đông đảo nhân sĩ, trí thức, người hiền tài phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến quốc, xây dựng một Chính phủ đoàn kết, hạn chế âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực ngoại bang và phản quốc.

Chính phủ lâm thời sau khi thành lập trải qua nhiều lần cải tổ thành chính phủ liên hiệp, tập hợp đông đảo nhân sĩ, trí thức không đảng phái, lực lượng trung gian để xây dựng chính phủ đoàn kết dân tộc. Dân chủ trong hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ đầu tiên giúp cho đội ngũ cán bộ được dịp khẳng định bản lĩnh chính trị, bộc lộ trí tuệ, tài năng, đạo đức trước nhân dân. Dân chủ trong tranh luận những vấn đề quốc gia đại sự, liên quan đến tồn vong của quốc gia - dân tộc, với bản lĩnh, trí tuệ và thực tiễn dày dạn, những người cộng sản đã xác lập và khẳng định vai trò lãnh đạo bằng khả năng dẫn dắt, sức thuyết phục, đặc biệt là vai trò, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không ít người không đảng phái, lực lượng trung gian từ chỗ còn hoài nghi, nhưng qua tranh luận, qua khả năng giải quyết thuyết phục những bài toán hóc búa mà thực tiễn đặt ra lúc bấy giờ, đã từng bước tin tưởng, nể phục, thừa nhận vai trò lãnh đạo của những người cộng sản. Với phong cách dân chủ, những người cộng sản thực hiện vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền một cách đầy thuyết phục, không chỉ cảm hóa, tập hợp, cuốn hút những người yêu nước chân chính tin và đi theo, mà còn hạn chế sự chống phá của các lực lượng chính trị thân Tưởng (Việt Quốc, Việt Cách).

Trong những ngày đầu cách mạng, dù vẫn phải điều hành đất nước bằng sắc lệnh, chưa có điều kiện xây dựng các đạo luật, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao nguyên tắc pháp quyền nhân nghĩa trong quản trị nhà nước, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm trị mọi hành vi đi ngược lại bản chất của Nhà nước cách mạng, xâm phạm đến lợi ích Tổ quốc, lợi ích nhân dân. Ngày 23-11-1945, Người đã ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và giao trọng trách cho những người có uy tín, đạo đức, công tâm để nghiên cứu, xem xét, giải quyết đơn thư của nhân dân, giám sát cơ quan chính quyền các cấp, xử lý nghiêm các sai phạm. Quốc lệnh do Người ký ngày 26-1-1946 xác định: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”(3), quy định rõ 10 trường hợp thưởng và 10 trường hợp phạt. Nguyên tắc pháp quyền nhân nghĩa đã góp phần bảo vệ kỷ cương, phép nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, trấn áp mọi hành động đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

Nguyên tắc pháp quyền nhân nghĩa thể hiện rõ ở từng điều khoản của Hiến pháp năm 1946 với chế định tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Cùng với bảo đảm quyền dân chủ đại diện thông qua nghị viện nhân dân, Hiến pháp còn quy định cụ thể những quyền dân chủ trực tiếp, như “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” (Điều 21); “Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra” (Điều 24); “Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe” (Điều 30)… Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Mô hình tổ chức và cơ chế vận hành của Nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà nước, thực hiện chủ quyền của nhân dân, phát huy dân chủ rộng rãi, bảo vệ các nguyên tắc pháp quyền.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo nên tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa làm nền tảng cho xây dựng và thực thi pháp luật dựa trên đạo lý, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân. Khác với hiến pháp và pháp luật các nước tư bản phục vụ cho sự cai trị của giai cấp tư sản, Hiến pháp và pháp luật trong chế độ ta là vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trấn áp mọi hành vi xâm phạm lợi ích Tổ quốc, lợi ích chính đáng của toàn thể nhân dân. Thời gian đầu vận hành của Nhà nước cách mạng vẫn còn những ý kiến khác nhau về xử lý mối quan hệ giữa chính trị và chuyên môn, hành chính và tư pháp, nhất là giữa những người được đào tạo dưới chế độ cũ với cán bộ trưởng thành từ thực tiễn cách mạng… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải tỏa khúc mắc về những mối quan hệ trên bằng những lý giải thấu tình, đạt lý với việc phân tách “ba tư cách” của người cán bộ tư pháp: Là bậc trí thức, phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa, để làm gương cho dân; là viên chức của Nhà nước, phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ; là người phụ trách thi hành pháp luật, phải nêu cao tấm gương “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo(4). Nói cách khác, theo Người, phải ứng xử với các vấn đề pháp lý bằng đạo lý vì nước, vì dân; người làm công tác bảo vệ công lý phải tự mình làm gương cho dân, phải đề cao liêm chính tư pháp. Người căn dặn cán bộ tư pháp xử án phải công tâm, liêm khiết, trong sạch; nhưng như thế chưa đủ, mà phải biết gần dân, giúp dân, hiểu dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Đó chính là pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh.

Với những giá trị vượt thời đại, thể chế dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Chí Minh đã được Đảng ta kế thừa, vận dụng, phát triển, tiếp tục soi sáng công cuộc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.

----------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 366

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 504

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 189

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 472 - 473