So sánh doanh nghiệp xã hội là gì

Doanh nghiệp xã hội, doanh nhân xã hội hay thương nhân xã hội là những thuật ngữ nhiều khi được sử dụng với nghĩa tương đồng trong việc nghiên cứu về trong một chừng mực nhất định. Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ doanh nghiệp ít có ý nghĩa như doanh nghiệp xã hội trong kinh tế. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay thuật ngữ doanh nghiệp sử dụng khá phổ biến trong khoa học pháp lý ngụ ý về một loại thực thể kinh doanh khác hơn hộ kinh doanh. Doanh nghiệp, trong khoa học pháp lý, thường được hiểu là một tổ hợp tài sản được sử dụng cho hoạt động kinh doanh, có nghĩa là đối tượng của các quyền. Trong khi đó thương nhân hay doanh nhân luôn luôn được khoa học pháp lý xem là thực thể kinh doanh, là chủ thể của các quyền mà được chia thành hai loại là thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân (có nghĩa là cá nhân kinh doanh và các công ty). Tuy nhiên trên thế giới hiện nay thuật ngữ doanh nghiệp xã hội (social enterprise) được sử dụng khá phổ biến. Nhưng bên cạnh đó thuật ngữ thương nhân xã hội hay kinh doanh xã hội (social entrepreneur hay social entrepreneurship) cũng được sử dụng khá rộng rãi.

Ở Việt Nam hiện nay có quan niệm cho rằng doanh nghiệp xã hội và doanh nhân xã hội là các thuật ngữ khác nhau mà trong đó muốn thành lập doanh nghiệp xã hội, thì các doanh nhân xã hội (tức nhà đầu tư) phải lựa chọn hình thức doanh nghiệp để đăng ký thành lập như doanh nghiệp thông thường. Doanh nghiệp ở Việt Nam là một thuật ngữ chỉ tất cả các hình thức kinh doanh, trừ hộ gia đình và hợp tác xã. Do đó trong doanh nghiệp, ngoài công ty ra còn có doanh nghiệp tư nhân (bản chất là cá nhân kinh doanh) giống với hình thức “entrepreneurship” ở Hoa Kỳ. Nhằm mục đích nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam, tác giả sử dụng thuật ngữ doanh nghiệp xã hội hiện đang quen dùng ở Việt Nam và các nước trên thế giới.

Theo một nghiên cứu của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương có tài trợ của Hội đồng Anh, doanh nghiệp xã hội đầu tiên xuất hiện ở nước Anh từ thế kỷ 17, tuy nhiên chỉ phát triển mạnh mẽ và trở thành một phong trào rộng lớn trên thế giới như hiện nay kể từ đầu những năm 1980. Có nghiên cứu cho thấy thuật ngữ doanh nghiệp xã hội sinh ra từ ý tưởng của William Drayton (người sáng lập Ashoka - tổ chức đầu tiên của thế giới thúc đẩy DNXH) mà ý tưởng này xuất hiện khi ông đi thăm Ấn Độ vào những năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ 19 lấy cảm hứng từ “Phong trào tặng đất” (Land Gift Movement) ở đây, theo đó người giàu hiến đất cho người nghèo để xóa bỏ vòng đói khổ trên tinh thần tái phân phối công bằng hơn .

Wrigleys Solicitors LLP nhận xét định nghĩa về doanh nghiệp xã hội không xuất phát từ cấu trúc pháp lý của doanh nghiệp mà xuất phát từ mục đích và hiệu quả của nó. Nhận xét này có ý nghĩa quan trọng cho thấy hai vấn đề là: (1) khó có thể định nghĩa doanh nghiệp xã hội trên căn bản các loại hình của nó, và (2) cũng có nghĩa là doanh nghiệp xã hội biểu lộ ra bên ngoài có thể bằng những hình thức thông thường như những doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận. Thực vậy, hiện nay hầu hết các định nghĩa về doanh nghiệp xã hội dựa trên mục tiêu của doanh nghiệp nhằm tới.

“Doanh nghiệp xã hội là một hình thái kinh doanh chủ yếu mang mục đích xã hội. Doanh nghiệp này tạo ra lợi nhuận nhằm tái đầu tư vào mục đích xã hội ban đầu hoặc vào cộng đồng, hơn là nhằm tối đa hoá lợi nhuận cho các cổ đông và chủ sở hữu”.

Ở Châu Âu thuật ngữ doanh nghiệp xã hội được sử dụng để mô tả một cách thức khác trong kinh doanh mà bao gồm thành tố kinh doanh nhiều hơn so với khu vực phi lợi nhuận và yếu tố đổi mới của phong trào hợp tác xã, theo đó xuất hiện một đặc điểm đặc biệt trong khái niệm doanh nghiệp xã hội ở Châu Âu là việc thiết lập một cấu trúc thể chế theo đuổi mục tiêu xã hội thách thức quan niệm truyền thống là doanh nghiệp theo đuổi các mục tiêu lợi nhuận tối đa.

Tuy nhiên có công trình luận giải so sánh cho thấy có sự khác biệt phần nào về khái niệm doanh nghiệp xã hội ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Theo Matthew F. Doeringer, có sự khác biệt này trong định nghĩa khái niệm doanh nghiệp xã hội giữa hai bờ Đại Tây Dương là do có những khó khăn về kinh tế mà mỗi bên phải đối diện trong quá khứ. Ông nhận xét định nghĩa khái niệm doanh nghiệp xã hội của Hoa Kỳ tập trung vào sự tạo ra thu nhập đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ đặc thù như được cung cấp bởi khu vực phi lợi nhuận, chẳng hạn như một tổ chức cung cấp miễn phí kiểm tra thị lực trong khi bán kính với giá thấp cho những người có thu nhập thấp. Trong khi đó khái niệm doanh nghiệp xã hội ở Châu Âu khái quát từ việc giải quyết vấn đề thất nghiệp kéo dài.

Trong Chiến lược phát triển doanh nghiệp xã hội năm 2002, Chính phủ Anh đưa ra định nghĩa: "Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu".

Định nghĩa này được dẫn lại bởi tài liệu nói về "Doanh nghiệp xã hội: Tổng quan về khung chính sách ở Ấn Độ" (Social Enterprise: An Overview of Policy Framework in India). Cũng như vậy, cuốn "Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách" do British Council, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và CSIP giới thiệu nguyên văn định nghĩa nói trên của Anh với đoạn dịch như sau: "Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu". Khái niệm doanh nghiệp xã hội, cả trong học thuật cũng như trong thực tiễn ở Hoa Kỳ nói chung là rộng hơn và tập trung hơn vào mục tiêu làm phát sinh lợi nhuận so với những nơi khác. Về sự khác biệt này, Janelie A. Kerlin giới thiệu trong định nghĩa: "Trong giới học thuật Hoa Kỳ, doanh nghiệp xã hội được hiểu bao gồm những tổ chức chấp nhận kinh doanh có định hướng lợi nhuận tiến hành các hoạt động vì lợi ích xã hội (trách nhiệm xã hội hay trách nhiệm từ thiện của doanh nghiệp - corporate philanthropies or corporate social responsibility) tới hoạt động kinh doanh với mục đích kép làm trung gian giữa các mục tiêu lợi nhuận với các mục tiêu xã hội (lai tạp - hybrid) tới tổ chức phi lợi nhuận tiến hành hành vi thương mại hỗ trợ sứ mệnh (tổ chức có mục tiêu xã hội). Đối với tổ chức có mục tiêu xã hội, hành vi thương mại hỗ trợ sứ mệnh (mission-supporting commercial activity) có thể bao gồm việc phát sinh lợi tức hỗ trợ đặt chương trình phi lợi nhuận hoặc các hoạt động đồng thời làm phát sinh lợi tức và cung cấp chương trình đáp ứng các mục tiêu sứ mệnh như hội thảo về nhà ở cho người khuyết tật (Young, 2001; 2003a). Doanh nghiệp xã hội tiến hành bởi mục tiêu phi lợi nhuận có thể khoác các hình thức tổ chức khác bao gồm các dự án thương mại nội bộ, các chi nhánh lợi nhuận và phi lợi nhuận".

Như vậy theo định nghĩa này, xét về mục tiêu lợi nhuận hay phi lợi nhuận, có thể chia doanh nghiệp nói chung thành mấy loại sau: Loại thứ nhất là các doanh nghiệp lợi nhuận đơn thuần; Loại thứ hai là các doanh nghiệp lợi nhuận có hoạt động vì lợi ích xã hội nói chung; loại thứ ba là các doanh nghiệp có mục tiêu kép (cả lợi nhuận và cả phi lợi nhuận); loại thứ tư là các doanh nghiệp phi lợi nhuận có tiến hành các hành vi thương mại hỗ trợ. Cách phân loại này khá linh động và có khả năng khuyến khích cao cho các doanh nghiệp tham gia vào các mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, sẽ dễ bị lợi dụng bởi các doanh nghiệp để thu lợi bất chính và sẽ là khó cho việc thiết kế chính sách và các qui tắc pháp lý để điều chỉnh các vấn đề pháp lý phát sinh.

EMES - một mạng lưới nghiên cứu quốc tế của 16 trung tâm nghiên cứu do các trường đại học thiết lập và nhiều nhà nghiên cứu độc lập có mục tiêu từng bước xây dựng ở Châu Âu một bộ tài liệu về kiến thức kinh nghiệm và lý thuyết đa ngành, đa phương pháp luận xung quanh doanh nghiệp xã hội và những vấn đề về khu vực thứ ba - đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp xã hội như sau: "Các doanh nghiệp xã hội là các tổ chức tư nhân phi lợi nhuận cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ liên quan trực tiếp tới mục tiêu rõ ràng của họ vì lợi ích của cộng đồng. Họ dựa trên động cơ tập thể bao gồm những dạng khác nhau của những người có lợi ích trong các cấu thành dưới sự điều chỉnh của họ, họ đặt giá trị cao trên sự tự trị của họ và gánh chịu các rủi ro kinh tế liên quan tới hoạt động của mình" .

Định nghĩa này làm rõ tính chất khu vực thứ ba và không có liên quan tới nhà nước, có nghĩa đơn thuần là mối quan hệ hay cách ứng xử của những người dân với xã hội thông qua doanh nghiệp xã hội. Đây là một quan niệm khác nhiều với quan niệm của Việt Nam, nơi mà đòi hỏi sự hỗ trợ, ủng hộ lớn của Nhà nước như một điều kiện cho sự phát triển của doanh nghiệp xã hội.

Sau khi tham khảo định nghĩa về doanh nghiệp xã hội của Chính phủ Anh, của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD, của Tổ chức Hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng – CSIP Việt Nam và các tiêu chí xác định doanh nghiệp xã hội của Luật Doanh nghiệp năm 2020; căn cứ vào thực tiễn và quy định pháp luật có liên quan, có thể định nghĩa về khái niệm doanh nghiệp xã hội như sau: Doanh nghiệp xã hội là một trong các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, hoạt động không vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà được thành lập với mục tiêu là để giải quyết một/các vấn đề xã hội nhất định mà doanh nghiệp này theo đuổi, bên cạnh mục tiêu kinh tế. Phần lớn lợi nhuận thu được của doanh nghiệp dùng để phục vụ mục tiêu xã hội, doanh nghiệp xã hội chủ yếu cung cấp các dịch vụ phục vụ cộng đồng như: giáo dục, văn hóa, môi trường, đào tạo nghề...

Có thể nhận thấy, khái niệm “doanh nghiệp xã hội” đã được tiếp nhận theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, doanh nghiệp xã hội là tất cả các mô hình tổ chức hoạt động vì mục tiêu xã hội, bao gồm các doanh nghiệp có kết hợp thực hiện mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh doanh trong đó mục tiêu xã hội được xác định là căn bản, các hợp tác xã thực hiện liên kết kinh doanh vì mục tiêu phát triển của cộng đồng, các tổ chức phi Chính phủ thực hiện sứ mệnh giải quyết các vấn đề xã hội. Theo nghĩa hẹp, “doanh nghiệp xã hội” trước hết, được hiểu là một loại hình doanh nghiệp, tức là phải có tiến hành các hoạt động kinh doanh nhưng đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Hiểu theo nghĩa này, các quỹ, các tổ chức phi Chính phủ không được coi là doanh nghiệp xã hội. Pháp luật Việt Nam hiểu doanh nghiệp xã hội theo nghĩa hẹp, thậm chí rất hẹp, do việc quy định doanh nghiệp xã hội trong Luật Doanh nghiệp 2020 sẽ loại trừ cả khả năng doanh nghiệp xã hội thành lập theo mô hình hợp tác xã, mặc dù có thể có những hợp tác xã thực hiện mục tiêu xã hội là chủ yếu.

Doanh nghiệp xã hội nhấn mạnh tới sự thay đổi xã hội hơn là nhằm tới lợi nhuận, phản ứng lại với những hoạt động kinh doanh lựa chọn điểm cốt yếu có khuynh hướng lợi ích ngắn hạn trên những chi phí phúc lợi dài hạn đối với xã hội . Quan niệm này nhấn mạnh tới sự khác biệt về mục tiêu và sự ảnh hưởng tới xã hội của doanh nghiệp xã hội với các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận. Đây có thể được xem là một dấu hiệu thể hiện rõ tính chất của doanh nghiệp xã hội về phương diện kinh tế xã hội.

Tổ chức OECD (Organisation for Economie Co-operation and Development) và Chương trình LEED (Local Economie and Employment Development Programme) nghiên cứu và đi đến kết luận rằng: Doanh nghiệp xã hội đã phát triển từ và trong khu vực kinh tế xã hội mà có ranh giới giữa thị trường và nhà nước, và thường được liên hệ với khái niệm "khu vực thứ ba" (third sector) và "khu vực phi lợi nhuận" (non-profit sector); khái niệm doanh nghiệp xã hội không cố gắng tìm kiếm thay thế các khái niệm của khu vực phi lợi nhuận hay kinh tế xã hội, mà nó có ý tưởng làm cầu nối giữa hai khái niệm bởi tập trung vào tinh thần (động cơ) doanh nhân mới về các sáng kiển công dân theo đuổi mục tiêu xã hội. Đó chính là sự thể hiện bản chất của doanh nghiệp xã hội.

Sau khảo cứu về các định nghĩa doanh nghiệp xã hội, tổ chức Community Waltham Forest đã rút ra các đặc điểm cơ bản sau của doanh nghiệp xã hội:

- Có sứ mệnh xã hội và môi trường rõ ràng được thiết lập trong văn bản điều chỉnh của họ

- 50% thu nhập của họ phát sinh từ thương mại hoặc mua bán hàng hóa và dịch vụ

- Tái đầu tư phần lớn lợi nhuận cho các hoạt động của chính doanh nghiệp xã hội

- Độc lập với nhà chức trách quốc gia và địa phương; và

- Phần lớn được kiểm soát liên quan tới lợi ích của sứ mệnh xã hội hơn lợi ích của các thành viên.

Sự khác biệt giữa doanh nhân (business entrepreneur) và doanh nhân xã hội (social entrepreneur) tập trung ở sứ mệnh của hai loại doanh nhân này. Đối với doanh nhân thông thường thì sáng tạo có tính chất của cải là tiêu chuẩn quan trọng bởi gắn với thị trường nơi mà doanh nhân phải thu hút khách hàng chi trả cho hàng hóa và dịch vụ do doanh nhân bán; còn đối với doanh nhân xã hội thì sứ mệnh xã hội là tiêu chuẩn quan trọng và thị trường không phải là tốt cho mục tiêu xã hội vì những người trong nhóm được hướng tới trong mục tiêu xã hội khó có thể chi trả cho hàng hóa và dịch vụ.

Từ bản chất và đặc điểm của doanh nghiệp xã hội như trên đã phân tích, có thể thấy doanh nghiệp xã hội mượn các hình thức của doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận và các loại công ty dân sự. Với tính chất của nội dung khác biệt nên hình thức này khó có thể phù hợp hoàn toàn. Vì vậy có thể xem các hình thức của doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận chỉ thích hợp từng điểm với từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp xã hội. Sự vay mượn này có thể do sự ra đời của doanh nghiệp xã hội khá mới mẻ và chưa hoàn toàn định hình.

Các hình thức tổ chức mà doanh nghiệp xã hội chấp nhận dựa vào cơ cấu pháp lý, dựa vào kinh tế chính trị của việc cung ứng phúc lợi đang tồn tại và dựa vào văn hóa, truyền thống lịch sử của sự phát triển phi lợi nhuận trong mỗi quốc gia. Vì vậy, khu vực doanh nghiệp xã hội ngày nay bao gồm cả các loại hình tổ chức mới và cả những tổ chức thuộc khu vực thứ ba truyền thống được cấu tạo lại bởi tinh thần doanh nhân mới.

Ở Anh, nơi doanh nghiệp xã hội phát triển khá mạnh đã sử dụng những hình thức pháp lý kinh doanh truyền thống cho doanh nghiệp xã hội. Các hình thức đó bao gồm:

Thứ nhất, các hình thức không tạo thành một thực thể tách biệt với các thành viên của chúng như: hiệp hội (association) hoặc câu lạc bộ (club); quỹ tín thác (trust); hợp danh (partnership);

Thứ hai, các hình thức tạo thành một thực thế tách biệt như: công ty (company); hợp tác xã và hội lợi ích chung của cộng đồng (co-operative and community benefit society); công ty quyền lợi cộng đồng (community Interest company); hội quyền lợi cộng đồng (community interest societies); hợp danh hữu hạn (limited liability partnership); tổ chức từ thiện có tư cách pháp nhân (charitable incorporated organisation).

Như vậy, bản chất của doanh nghiệp xã hội là một thực thể hỗ trợ các vấn đề xã hội bằng các hoạt động kinh doanh. Thực thể này có hình thức hầu như giống với các hình thức thương nhân thông thường và có thể có các hình thức riêng biệt, và tiến hành các hành vi thương mại nhưng lợi nhuận hầu hết dành cho việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường.

2. Khái niệm, ý nghĩa của tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội

2.1. Khái niệm tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội

Tuyển dụng lao động có thể được hiểu theo nhiều phương diện khác nhau. Xét về phương diện kinh tế thì tuyển dụng lao động được coi là giai đoạn đầu của quá trình mua bán hàng hóa sức lao động. Sức lao động, theo C. Mác - Đó là toàn bộ thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích. Do không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao động và không còn cách nào khác để sinh sống nên người lao động buộc phải bán sức lao động cho người sử dụng lao động. Để có thể bán sức lao động như một loại hàng hóa, người lao động phải được tự do về thân thể và làm chủ sức lao động của mình. Ngược lại, người sử dụng lao động có vốn, của cải, trang thiết bị cần phải sử dụng lao động để sản xuất, kinh doanh và tạo ra lợi nhuận. Như vậy, sức lao động được coi là một loại hàng hóa đặc biệt mà người lao động đem ra bán trên thị trường, còn người sử dụng lao động là người mua sức lao động do người lao động bán thông qua công tác tuyển dụng lao động.

Xét về phương diện xã hội thì tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội được hiểu là hình thức huy động lực lượng lao động vào làm việc theo nhu cầu và khả năng của người sử dụng lao động. Ở phương diện này, tuyển dụng lao động bao gồm hai quá trình đó là tuyển mộ và tuyển chọn lao động, trong đó, tuyển mộ là quá trình tìm kiếm, thu hút các ứng viên, giúp doanh nghiệp “chiêu mộ” các ứng viên vào làm việc cho mình, còn tuyển chọn là việc chọn lựa người lao động phù hợp từ các ứng viên đó và ra quyết định tiếp nhận người lao động vào vị trí trong doanh nghiệp. Để thu hút người lao động, người sử dụng lao động phải thông báo về nhu cầu cần tuyển dụng với các nội dung như: nghề, công việc, vị trí cần tuyển, trình độ chuyên môn, số lượng cần tuyển, thời hạn hợp đồng, tiền lương, điều kiện làm việc, yêu cầu về hồ sơ dự tuyển, ngày dự tuyển... Khi nhận được hồ sơ dự tuyển, nhà tuyển dụng sẽ tiến hành các hoạt động xem xét và lựa chọn ứng viên đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đã đặt ra. Sau khi tổ chức, đánh giá, người sử dụng lao động có quyền ra quyết định của mình về việc nhận hay không nhận ứng viên vào làm việc.

Với tư cách là một hoạt động của quá trình lao động, tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội là khâu đầu tiên và có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp. Thông qua công tác tuyển dụng lao động, doanh nghiệp nắm bắt được nguồn nhân lực, đảm bảo nguồn nhân lực không bị thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời, hoạt động này còn đảm bảo cho người lao động khả năng lựa chọn công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và điều kiện hoàn cảnh, tạo điều kiện cho người lao động làm việc hiệu quả, có trách nhiệm trong công việc. Do vậy, tuyển dụng lao động phải được tiến hành trên cơ sở thiết lập chính sách tuyển dụng đúng đắn, có sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc và các tiêu chuẩn phải rõ ràng.

Xét về mặt ngôn ngữ, tuyển dụng là sự kết hợp của từ “tuyển” và từ “dụng”, trong đó nếu bóc tách riêng từng từ thì từ “tuyển” được hiểu là việc lựa chọn trong số nhiều cùng loại để lấy một số lượng nào đó theo yêu cầu, tiêu chuẩn đã đề ra. Còn “dụng” được hiểu là dùng, sử dụng. Từ sự kết hợp hai từ này có thể hiểu theo hai hướng. Một là, tuyển dụng lao động bao gồm việc tuyển chọn và sử dụng lao động, trong đó tuyển chọn là tiền đề cho việc sử dụng. Theo hướng này thì tuyển dụng lao động không đơn thuần là việc chọn lựa người lao động vào làm việc tại doanh nghiệp mà còn bao gồm cả quá trình sử dụng lao động trong doanh nghiệp đó. Khi tuyển dụng, người sử dụng lao động có quyền đặt ra những tiêu chuẩn về thể lực, trí lực phù hợp với tính chất công việc cần tuyển. Đây chính là khâu tuyển chọn. Sau khi đã hình thành lực lượng lao động, người sử dụng lao động sẽ sử dụng lao động theo mục đích tuyển dụng đã đề ra; tiến hành bố trí, điều hành lao động sao cho phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Sử dụng lao động cũng là quá trình các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình như đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động phù hợp với quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và điều kiện thực tế của đơn vị sử dụng lao động. Như vậy, tuyển dụng lao động bắt đầu từ khi nhà tuyển dụng tiến hành thông báo tuyển dụng và kết thúc khi quan hệ lao động chấm dứt.

Hiểu theo hướng thứ hai thì tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội chỉ là việc tuyển chọn lao động. Theo hướng này, tuyển dụng lao động có nghĩa hẹp hơn so với quan điểm trên. Nó là một quá trình bắt đầu từ khi nhà tuyển dụng ra thông báo tuyển dụng và kết thúc khi người sử dụng lao động và người lao động ký kết hợp đồng lao động, trong đó, hợp đồng lao động là hình thức pháp lý thể hiện mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động mà nội dung của nó bao gồm các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động của các bên, Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Xét về mặt pháp lý, theo Từ điển Black's Law thì tuyển dụng lao động được hiểu là quá trình xác định và tuyển dụng các ứng viên có trình độ nhất định, từ bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp cho một vị trí tuyển dụng một cách hiệu quả, kịp thời và tiết kiệm chi phí.

Mở rộng thêm, về mặt pháp lý cũng có thể hiểu tuyển dụng lao động là một quá trình tuyển chọn và sử dụng lao động của các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân do Nhà nước quy định, nhằm đáp úng nhu cầu sử dụng lao động của mình.

Nhìn chung, các khái niệm về tuyển dụng lao động nêu trên về cơ bản đều đã nêu được nội dung của tuyển dụng lao động. Tuy nhiên, do quan điểm về hoạt động tuyển dụng lao động của mỗi tác giả khác nhau nên các khái niệm này chỉ có tính chất tương đối, chưa nêu bật được bản chất của hoạt động này. Chính vì vậy, qua việc phân tích các khái niệm nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa tuyển dụng lao động như sau:

Tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội là quá trình tìm kiếm, thu hút, lựa chọn và đánh giá các ứng viên để tìm ra người phù hợp cho công việc trong doanh nghiệp, là một trong các hình thức pháp lý huy động lực lượng lao động của người sử dụng lao động được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội cũng giống như tuyển dụng lao động nói chung là hoạt động mang tính tất yếu, khách quan của bất kỳ quá trình lao động chung nào của con người và dĩ nhiên, tuyển dụng lao động được thực hiện bằng các hoạt động mang tính xã hội. Mục đích của tuyển dụng lao động là sử dụng hiệu quả sức lao động phù hợp với từng công việc nhằm đạt được mục tiêu cao nhất mà quá trình lao động sản xuất đặt ra. Khi nhà nước thừa nhận quyền tuyển dụng lạo động của người sử dụng lao động và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật, thì từ đó, hoạt động tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động được gọi là quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động. Hay nói cách khác, khái niệm quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động là phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động thông qua quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc đưa ra các quy định, quyết định, quyền lựa chọn và áp dụng các biện pháp tuyển dụng lao động... đối với người lao động.

Như vậy, có thể thấy tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội mang bản chất kinh tế và bản chất pháp lý. Bản chất này được thể hiện ở những đặc điểm sau:

Thứ nhất, tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội thể hiện ý chí của một bên chủ thể - người sử dụng lao động.

Điều đó được hiểu là người sử dụng lao động toàn quyền thể hiện ý chí riêng của mình trong hoạt động tuyển dụng lao động. Đây được coi là đặc điểm quan trọng trong quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động, thể hiện quyền lực đươc nhà nước chuyển giao và thừa nhận với tư cách là chủ thể sử dụng lao động. Ngoài ra, quyền lực mang tính đơn phương này còn thể hiện sức mạnh và lợi thế vốn có của người sử dụng lao động trong mối quan hệ với người lao động ngay từ khâu tuyển dụng.

Tính đơn phương trong quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động đựợc biểu hiện ra bên ngoài bằng nhiều hình thức như tự đưa ra các yêu cầu, điều kiện tuyển dụng, tự lựa chọn hình thức tuyển dụng và có quyền quyết định tuyển dụng đối với người lao động, được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Có nhiều trường hợp, tính đơn phương thể hiện triệt để, nghĩa là người sử dụng lao động toàn quyền quyết định một vấn đề nào đó trong quá trình tuyển dụng, không cần phải tham khảo ý kiến của chủ thể nào khác. Trong nhiều trường hợp, để bảo đảm sự dân chủ cũng như lợi ích của các chủ thể trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động vẫn phải tham khảo ý kiến của họ trước khi quyết định một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, trong quá trình tham khảo mà các bên không thống nhất ý kiến, thì người sử dụng lao động vẫn có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Điều này cho thấy rằng, quyền lực mang tính đơn phương của người sử dụng lao động là loại quyền lực vừa có tính áp đặt từ ý chí của người sử dụng lao động, vừa luôn bị chi phối từ ý chí của chủ thể khác.

Thứ hai, tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội là quyền giới hạn

Nghĩa là người sử dụng lao động chỉ được thực hiện quyền tuyển dụng lao động trên cơ sở phạm vi mà Nhà nước “trao quyền” được quy định cụ thể trong pháp luật lao động. Cùng với việc quy định và bảo vệ những hoạt động mà người sử dụng lao động được phép thực hiện, pháp luật đồng thời xác định và ngăn ngừa những hoạt động mà người sử dụng lao động không được phép thực hiện khi tuyển dụng lao động. Mục đích không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của người sử dụng lao động trong hoạt động kinh doanh, sản xuất mà pháp luật còn phòng tránh các trường hợp người sử dụng lao động lạm dụng quyền này mà xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể khác, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Nếu vì lợi ích hoặc vì lý do nào đó mà người sử dụng lao động lạm quyền, xâm phạm quyền và lợi ích của người lao động hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước thì hành vi đó sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định.

Thứ ba, tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội làm phát sinh quan hệ lao động

Quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động bao gồm quyền đưa ra các điều kiện tuyển dụng, địa điểm tuyển dụng, lựa chọn hình thức tuyển dụng, lựa chọn loại hợp đồng lao động để ký kết... Người sử dụng lao động với tư cách là người có tư liệu sản xuất, nhu cầu nhân lực để hoạt động sản xuất kinh doanh, họ có quyền tuyển dụng lao động để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Như đã nói ở trên, quá trình tuyển dụng lao động là quá trình mua bán “hàng hóa sức lao động”. Kết quả của quá trình này là người lao động bán được thứ mình muốn, còn người sử dụng lao động mua được thứ mình cần, tức là người sử dụng lao động tìm được những người lao động phù hợp với những yêu cầu mà mình đặt ra, từ đó đi đến việc xác lập hợp đồng lao động. Như vậy, rõ ràng quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động làm phát sinh quan hệ lao động.

Thứ tư, tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội hướng tới đối tượng là nhóm người lao động yếu thế

Nhóm người lao động yếu thế bao gồm: Lao động là người khuyết tật, lao động là người chưa thành niên, lao động là người cao tuổi, lao động nữ. Đây là một lực lượng không nhỏ trong xã hội và được xác định là nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương mà xã hội luôn quan tâm, đòi hỏi họ phải được bảo vệ bằng luật pháp để bảo đảm quyền bình đẳng tham gia vào các hoạt động của xã hội, trong đó có quyền bình đẳng về việc làm bền vững.

2.2. Ý nghĩa của tuyển dụng lao động trong doanh nghiệp xã hội

Thứ nhất, đối với người sử dụng lao động

Pháp luật về tuyển dụng lao động đã tạo cơ sở pháp lý cho người sử dụng lao động thực hiện quyền của mình. Hoạt động tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động chỉ được thực hiện khi được pháp luật ghi nhận, hay nói cách khác chỉ khi được ghi nhận bởi pháp luật thì hoạt động đó mới được coi là quyền của chủ thể và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Sự ghi nhận của pháp luật đối với quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động thể hiện ở việc pháp luật quy định và bảo vệ những việc mà chủ thể quản lý được phép thực hiện đồng thời cũng quy định những việc mà chủ thể quản lý không được phép áp dụng khi thực hiện hoạt động tuyển dụng tại doanh nghiệp của mình. Trên cơ sở những quy định cụ thể đó, người sử dụng lao động có cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện các hoạt động tuyển dụng trong quyền năng của mình để từ đó khẳng định được vai trò và quyền uy của chủ sử dụng lao động, tạo ra trật tự về tổ chức và hoạt động của đơn vị sử dụng lao động nhằm đạt mục đích nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc.

Pháp luật về tuyển dụng lao động thể hiện quyền tự chủ của người sử dụng lao động đối với đơn vị lao động và sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp là chủ sử dụng lao động. Các quy định pháp luật về tuyển dụng lao động đã cho phép người sử dụng lao động được tùy ý quyết định các vấn đề về tuyển dụng lao động trong đơn vị của mình để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh vì sự tồn tại và phát triển của đơn vị.

Pháp luật về tuyển dụng lao động tạo điều kiện cần thiết để người sử dụng lao động có thể tuyển dụng được lao động một cách hiệu quả. Trên cơ sở các quy định pháp luật đó, người sử dụng lao động biết cách vận dụng linh hoạt, có biện pháp tuyển dụng phù hợp với đặc trưng của đơn vị lao động sẽ tuyển dụng được người lao động có chất lượng. Ngược lại nếu người sử dụng lao động không biết khai thác quyền năng mà pháp luật trao cho mình, có biện pháp tuyển dụng không phù hợp thì dẫn đến việc tuyển dụng không hiệu quả, mục đích tuyển dụng lao động không đạt được.

Thứ hai, đối với người lao động

Đối với người lao động, hoạt động tuyển dụng của người sử dụng lao động tạo cơ hội về việc làm cho người lao động, giúp người lao động có thu nhập và ổn định cuộc sống. Mặt khác, hoạt động tuyển dụng giúp người lao động phát triển nhân cách và giữ gìn nhân phẩm con người. Những tiêu chuẩn mà người sử dụng lao động đưa ra trở thành mục tiêu phấn đấu cho những người mong muốn có việc làm. Thông qua đó, trình độ của mỗi người lao động nói riêng và lực lượng lao động trong xã hội nói chung sẽ ngày càng được nâng lên. Nếu việc tuyển dụng được thực hiện một cách nghiêm túc, sẽ tạo cho người lao động niềm tin, tăng hiệu quả làm việc của người lao động.

Việc tuyển dụng lao động còn tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm việc và nghĩa vụ lao động của mình. Người lao động có quyền tự do trong việc lựa chọn địa điểm làm việc và lựa chọn người sử dụng lao động tùy thuộc vào ý chí, nguyện vọng và khả năng của họ. Đồng thời, làm việc cũng là một nghĩa vụ của người lao động. Khi đến tuổi trưởng thành, mọi người đều phải có nghĩa vụ để tự nuôi sống bản thân để không những không trở thành gánh nặng cho xã hội, mà còn tạo ra của cải cho xã hội, góp phần phát triển kinh tế- xã hội. Trong khi đó, người lao động chỉ có thể thực hiện quyền làm việc và nghĩa vụ lao động thông qua công tác tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động.

Thứ ba, đối với nhà nước và xã hội

Pháp luật về tuyển dụng lao động cụ thể hóa đường lối quản lý của nhà nước trong lĩnh vực lao động. Nhà nước thừa nhận quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động và để quyền đó được thực thi có hiệu quả theo đúng hướng quản lý của nhà nước thì nhà nước đã thể chế quyền bằng các quy định pháp luật. Theo đó các quy định của pháp luật về tuyển dụng lao động luôn thể hiện sự phù hợp với cơ chế quản lý lao động của nhà nước. Thông qua các quy định pháp luật về tuyển dụng lao động, người sử dụng lao động cụ thể hóa các quy định phù hợp với đơn vị mình khi thực hiện hoạt động tuyển dụng. Có thể nói, quy định về tuyển dụng lao động là việc thể hiện đường lối quản lý nhà nước về lao động một cách gián tiếp.

Không chỉ có vai trò quan trọng đối với người sử dụng lao động, pháp luật về tuyển dụng lao động còn có vai trò nhất định góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khi người sử dụng lao động tuyển dụng lao động hiệu quả sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, hiệu quả sản xuất cao, lợi ích thu lại cho doanh nghiệp nhiều thì thu nhập quốc dân cũng ổn định và tăng lên, mức sống xã hội được cải thiện, vấn đề an sinh xã hội được đảm bảo. Pháp luật về tuyển dụng lao động tạo cơ sở pháp lý để chủ thể tuyển dụng thực hiện tốt quyền tuyển dụng của mình, tạo ra quan hệ lao động.