So sánh người chăm với người kinh

Lâu nay, khi nói đến tỉnh Sóc Trăng, nhiều người nghĩ đến các chùa Khmer nổi tiếng như chùa Chén Kiểu, chùa Dơi hay chùa Đất Sét, hoạt động lễ hội Chol Chnam Thmay, Ok-om-bok, đua ghe ngo vào dịp rằm tháng 10 âm lịch, lễ hội sông nước miệt vườn cồn Mỹ Phước, huyện Kế Sách… Song, vùng đất này còn có điểm đặc sắc là sự cộng cư và giao thoa của ba nền văn hóa dân tộc Kinh - Khmer - Hoa .

Theo tiến sĩ Trịnh Công Lý, nhà sử học, người có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử vùng đất Sóc Trăng, thì nơi đây là một vùng đất mới được các cư dân người Việt đến khẩn hoang chỉ trong vòng 300 năm trở lại đây. Cùng với các biến động lịch sử trong thời kỳ này, các dân tộc như Chăm, Hoa và Khmer bản địa trong quá trình cộng cư đã hình thành nên một nét văn hóa đặc sắc và khá riêng biệt và có thể gọi là “Văn hóa xứ Giồng”. Nét văn hóa này, ngày nay vẫn còn tồn tại khá rõ nét nếu du khách có dịp đi ngang qua con đường Giồng Cát từ xã Vĩnh Châu đến xã Lai Hòa, huyện Vĩnh Châu. Bên cạnh các phum sóc của đồng bào dân tộc Khmer, du khách sẽ dễ dàng nhận thấy những ngôi nhà tường khá khang trang, bên ngoài có dán “giấy hồng”, đặc trưng của người Hoa, nằm trong các khu vực tập trung đồng bào Khmer có nơi lại có những ngôi đình, chùa mang đậm kiến trúc Trung Hoa. Nhiều nơi còn có cả những ngôi trường do người Hoa lập ra để dạy tiếng Hoa cho con em họ. Ông Sơn Dêm, Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Châu, dẫn chứng: Chỉ riêng xã Vĩnh Châu, tỷ lệ hộ dân người Khmer chiếm 77%, người Hoa chiếm 21,3%, còn lại là dân tộc khác. Chính vì nét đặc thù này đã tạo nên nét văn hóa pha trộn giữa ba dân tộc Kinh- Khmer-Hoa, hiện được xem là “đặc sản” của huyện Vĩnh Châu nói riêng và tỉnh Sóc Trăng nói chung.

So sánh người chăm với người kinh

Hội thi trang phục Kinh - Hoa- Khmer được tổ chức năm 2007.

Theo tài liệu tra cứu được tại Thư viện tỉnh Sóc Trăng, kể từ khi những người Minh Hương đến cư ngụ tại tổng Khánh Hưng, đã có sự giao hòa trong cuộc sống với người Khmer bản địa qua giao tiếp, qua ngôn ngữ và cả quan hệ huyết thống. Nhiều địa danh còn lưu giữ ở Sóc Trăng ngày nay đã phản ánh phần nào mối quan hệ này như làng Xoài Ca Nả, làng Bố Thảo,... Đặc biệt, kiến trúc của chùa Xà Lôn (chùa Chén Kiểu )ở Đại Tâm, Mỹ Xuyên cũng thể hiện sự pha trộn văn hóa này. Nếu xem xét kỹ thì hình rồng được đắp trên các cột của chính điện Chùa Chén Kiểu đã không còn là “rồng truyền thống” trong hình ảnh dân gian Khmer mà có sự ảnh hưởng của người Hoa. Chín đôi cột cũng đã có cách giải thích khá lý thú về đặc thù cộng cư của các tộc người trong vùng, gắn liền cách lý giải về sông Cửu Long của người Việt.

Từ thực tế đó, ngày nay, không ít người dân, đặc biệt là những hộ kinh doanh, mua bán nhỏ, để tiện giao dịch, làm ăn, họ phải nói được cả 3 thứ tiếng Việt – Khmer - Hoa. Một điều khá thú vị là không ai có thể nhớ ra rằng, là cả ba dân tộc sinh sống trên vùng đất này đều xem lễ, tết của dân tộc nhau như của dân tộc mình từ lúc nào. Trong đó, không ít người Việt lẫn người Hoa đã trở thành phật tử của chùa Khmer - Hòa thượng Tăng Nô, trụ trì chùa Khleang, đã khẳng định như thế.

Sự giao thoa giữa ba nền văn hóa này còn hiện diện trong những món ăn thường nhật. Có những món đã trở thành đặc sản của Sóc Trăng ngày nay như bún nước lèo. Món “bún nước lèo” đặc sắc của Sóc Trăng từng đạt giải nhất tại Liên hoan du lịch Mekong cũng chính là món ăn mang nặng tính “giao thoa” giữa các khẩu vị, món ăn của cả ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa ở Sóc Trăng. Vị ngọt bùi của trứng và ruột cá lóc, hương vị mặn mà, đậm đà của mắm Pro-hốc của người Khmer được ăn kèm với bắp chuối non, rau muống thái sợi, giá sống thì đích thị là cung cách của người Kinh, nhưng vài miếng bì heo quay giòn giòn, dai dai, béo béo lại đúng là của người Hoa.

Những năm gần đây, Sở Văn hóa thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch) tỉnh Sóc Trăng đã có nhiều cố gắng trong việc duy trì và phát huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc, như đầu tư phục dựng và bảo tồn nghệ thuật dù kê, Rôbăm của đồng bào dân tộc Khmer. Phòng Văn hóa các huyện thường xuyên tổ chức và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các đội ca múa nhạc, các nghệ nhân người Hoa, có điều kiện tập luyện, duy trì hoạt động. Trong đó, hội thi trang phục 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa là hoạt động điển hình để phát huy và khơi dòng cho sự giao thoa này thăng hoa. Hoạt động này, năm nay đã được tổ chức lần thứ tư. Trong dịp lễ hội Ok-om-bok năm nay, hoạt động này sẽ được tiếp tục diễn ra ở với qui mô thật hoành tráng. Nếu một lần được chứng kiến, chắc chắn bạn nhận ra rằng: “Bấy lâu nay mình chỉ thấy được một Sóc Trăng và bây giờ mới thật sự biết”.

Trong nỗi hào hứng hiếm có, anh trí thức nông dân Qua Đình Lan trong buổi tối mưa khá nặng hạt ở giấc tàn của buổi tiệc nhà quê đất Tuy Phong cho rằng, dứt khoát cái “họ” của người Chăm đi theo đường trôn ốc uốn lượn, gẫy gập khó lường, nhưng không thể không lý giải được.

So sánh người chăm với người kinh
Người nữ Cham Islam và Cham Bà-ni. Ảnh: INRASARA

Anh nói: - Chăm có họ đâu nào! Nữ là “Mư”, nam thì cứ “Ja” mà kêu. Kêu vậy, sao mà làm khai sanh cơ chứ. Thế là các quan nhà Nguyễn bày ra cái họ cho Chăm. Cùng “họ” với người Kinh thì không được. Vậy đào đâu ra đây? À, đây rồi. Cứ lấy họ Tàu mà định. Nhưng không thể sao y bản chánh được, mà phải làm khác đi. Ngưng lấy hơi, sau khi hớp ngụm bia 333, anh tiếp:

- “Đào” thành “Đạo”, “Trương” thành “Trượng”, “Lã” thành “La”… cứ thế… cứ thế…

Nữ thi sĩ Kiều Maily nghe mà cứ há hốc mồm, như thể đây là lần đầu trong đời mình biết nỗi lạ đời như thế.

- Thế họ “Kiều” của em thì sao? - Nữ thi sĩ hỏi.

- Nó từ “Cao”. “Cao” đọc theo âm Hán là “Kiêu”. “Kiêu” thêm dấu huyền thành “Kiều”. Cậu thư kí cứ ghi khai sanh nó họ “Kiều” cho ta…

Maily ngẩng ra mà cười. Tôi cười theo. Vợ chồng nghệ sĩ (cũng nông dân) Qua Thị Hồng Loan - Chế Quốc Minh được một bữa cười no. Tôi thấy đây là một phát hiện cực độc, rất đáng cho các nhà nghiên cứu dân tộc học tham khảo. Chương “Nhà đại cố vấn họ Cao” trong Chân dung Cát năm 2006, tôi viết:

“Anh tên khai sinh Kiều Xuân Hoang, sau thương cô gái Kinh ở Phan Thiết lấy dao lam cạo thẻ căn cước thành Kiêu. Nhưng Kiêu (ai lại họ Kiêu) thấy phát âm chậm và lạ tai nên bạn bè tiện thể gọi luôn Cao Xuân Hoang cho trót”.

Trước kia, tôi chắc mẩm các biến thái của “họ” Chăm xuất phát từ mặc cảm Chàm, chứ không ngược lại - khởi động từ chính mặc cảm Việt.

- Siêu! - Tôi nói với Qua Đình Lan.

“Họ” của người Chăm là đối tượng ngành dân tộc học rất đáng để tâm nghiên cứu, thế mà đến hôm nay vẫn chưa có một luận án sáng giá nào về đề tài này. Bài viết “Tìm hiểu về họ của người Cham” của Chế Vỹ Tân (Tagalau, 2004, tr. 109-110), chỉ như một gợi ý.

Hỏi các cụ có học về “họ” Cham, các vị cứ mơ mơ hồ hồ. Các vua chúa Champa, hết Indra đến Jaya, hết Çri đến Pudra… thêm mấy hậu tố varman nữa. Chúng cứ xa vời vợi với những Lâm, Phú, Đàng, Hứa, v.v… hiện tại. Chẳng biết đâu là đâu.

Thử xem họ xưa của các vua Champa có gì. INDRA như Indravarman, còn INRA là biến thái của INDRA như Inra Patra, nhân vật chính trong Akayet Inra Patra. JAYA như Jaya Sinhavarma, ÇRI thì Çri Satiavarman, MAHA có Maha Vijaya, rồi RUDRA là Rudravarman, PUDRA: Pudravarman. Tất cả đều vay mượn từ tiếng Sanscrit, có mặt trên bi kí, hoàn toàn xa lạ với dân Chăm Pangdurangga.

Ngày nay, các họ này vẫn còn được một số người xài lại, như một cách hoài niệm thời huy hoàng. Jaya Mrang, Jaya Panrang; Inrasara; Pudradang. Người Tàu chép sử có liên quan đến Champa thì tất cả thành CHẾ / (có lẽ do Cri): Chế Mân, Chế Củ, Chế Bồng Nga. Hôm nay ta có: Chế Quốc Minh, Chế Lan Viên, Chế Linh, Chế Lưu Phương, Chế Mỹ Lan…

Rồi ONG hay Ông. Ông tiếng Chăm là Ong hay Aung, Ung, là một trong bốn dòng tộc nổi tiếng của Chăm. Họ “Ông” có từ thời Nhà Lý (và chỉ có từ thời này), khi 5.000 (năm 1044) và 50.000 (năm 1069) tù binh Cham bị Nhà Lý bắt ra Bắc. Đa phần các tù binh này lấy vợ Việt lai giống làm thành họ “Ông”. Gia phả dòng họ Ông thuộc Cẩm Lệ, một quận của thành phố Đà Nẵng mà thủy tổ là Ông Lý Trai có từ đời Nhà Lý đến nay là 41 đời. Ông Ích Khiêm, Ông Ích Đường là các nhân vật trong lịch sử cận đại Việt Nam. Hôm nay là nhà văn Ông Văn Tùng.

MA có lẽ phiên âm từ MAHA. Người Chăm ngày nay không còn dùng họ Ông và Ma đặt tên họ cho mình nữa, trong khi TRÀ / (có lẽ do từ Jaya mà ra) như Trà Toàn, Trà Hòa Bố Đế, lại rất phổ biến. Ở Quảng Nam có tộc Trà vẫn còn giữ sinh hoạt dòng tộc. Họ luôn nhận mình là Cham: Trà Công Tân, Trà Toại. Còn ở Ninh Thuận, người viết Chăm vẫn thích dùng Trà làm “họ” bút danh: Trà Ma Hani.

Theo Nguyễn Văn Luận trong cuốn Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam (NXB Giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn 1974, tr. 116), bốn họ Ông, Ma, Trà, Chế chỉ dành cho vua, dân chúng thì không được. Vậy mà trong thực tế vẫn có người dùng “họ” này làm khai sinh hay bút hiệu.

Vua chúa là vậy, còn quần chúng Chăm thì cứ đặt JA (nam) hay MƯ (nữ) trước cái tên, hệt VĂN hay THỊ bên Việt, là xong. Tất cả, không phân biệt, cho đến khi thành người lớn, xây dựng gia đình hay có vai vế trong xã hội, họ mới được gọi theo vai vế hay chức danh.

Có lẽ ngày xưa, các thứ dân Chăm đều mang chung hai “họ” ấy. Nói “có lẽ” thôi, bởi đến nay vẫn chưa có cứ liệu nào làm bằng chứng. Dạo này, Chăm có xu hướng không dùng hai “họ” kia nữa, nghĩ rằng thế thì tầm thường quá, dẫu đã có không ít vị lấy nó đặt bút danh. Jamưta Harei (nhà nghiên cứu Thiên Sanh Cảnh), Jalau (thi sĩ Trượng Văn Lầu). Vẫn đẹp và sang trọng đáo để!

Chuyện như đùa. Thời Ngô Đình Diệm trong ý đồ quản lý công dân chặt chẽ hơn, trên xã phái tay thư ký xuống các palei Caklaing điều tra dân số. Bước vào nhà tôi, anh gặp ngay chị Hám là chị cả trong gia đình. Anh hỏi:

- Chị họ gì?

- Tui họ Gơp Gađak - chị đáp không cần suy nghĩ.

- Gơp Gađak là họ gì?

- Thì họ Kut Gơp Gađak dòng họ mẹ tui đó.

Anh này mở tròn mắt, gõ gõ đuôi bút bi mấy cái lên trán mà chả bật ra thứ gì.

- Chị còn có họ nào khác không?

- Tui họ Bà Boy, chị Nhjuw, cô Liên…

- À, biết rồi… biết rồi. Thế họ của chị trong giấy khai sanh là thế nào?

- Thế nào ai mà biết, chú hỏi gì hỏi nhiều thế…

Vậy là uổng công! Chị Hám có biết chữ Quốc ngữ đâu mà hỏi. Giá có biết thì chị là Thị Hám, vậy thôi. Tất tần tật nữ Chăm đều “thị” cả. Ra thế, nên Ngô Tổng thống mới mở hàng loạt lớp Bình dân học vụ cho các bà mẹ Chăm ở quê mỗi tối xách đèn coọc đi học. Anh thư ký xã người đàng quê không hiểu chị Hám, tôi thì tôi quá hiểu. Ý chị kêu “họ” theo dòng tộc. Người Chăm có dòng họ được đặt theo tên vua: họ Ppo Rome, họ Ppo Gihluw. Hoặc đặt theo tên loài cây trụ trong Kut chính: họ Gađak, chính là “họ” của chị Hám ở làng Mỹ Nghiệp, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Hay họ Mil Pui (tức Amil Apwei/ Cây me lửa) ở Hữu Đức, cũng thế. Hỏi quá, thì chị kể tên người bà con trong “dòng họ” mình, là phải rồi.

Đó là nói về cộng đồng Chăm ở Pangdurangga đất Tam Phan, Chăm ở miền Tây theo tôn giáo Islam có khác. Người Islam không hề biết đến họ mà chỉ có việc đặt tên mà thôi. Bà con căn cứ vào ngày, giờ sinh mà có thể chọn một trong hai mươi lăm vị thánh Islam, bắt đầu từ Adam cho đến cuối cùng là Muhammad.

Trên nền đó, người ta có thể đặt tên cho con trai và con gái. Ví dụ, sinh ngày chủ nhật, con trai được đặt tên là: Ibrahim, Isa…, con gái là: Rabyyah, Halimah… Việc đặt tên này được thực hiện bảy ngày sau khi sinh. Nếu vậy rất dễ xảy ra sự trùng lặp. Người Islam giải quyết sự vụ này bằng cách thêm tên cha ngay tiếp đó; nam là Bin, nữ là Binti. Nhưng tất tần tật chỉ để gọi ở ngoài đời chứ không hề có mặt trong giấy khai sinh hay căn cước. Ví dụ: Ibrahim Bin Musa, Saliha Binti Issamael.

Chỉ sau này, bằng Đạo dụ số 52, ngày 29-8-1956, Ngô Đình Diệm buộc mọi công dân Việt Nam có tên họ mang âm “dân tộc thiểu số” phải thay đổi cho hợp với âm tiếng Việt. Ví dụ: Yaba thành ra Trương Sơn Ba, Dohamide thành Đỗ Hải Minh. Và việc vận dụng Đạo dụ này của các viên chức càng thêm rối rắm, mỗi nơi mỗi khác. Tại Châu Đốc, họ thêm Châu vào, còn ở Tây Ninh thì thêm Cham! Ví dụ Châu Sanh, Châu Du… hay Chăm Sô, Chăm Lê.

Phong ba bão táp chẳng khác chi tên đường phố Việt Nam hiện thời.

Không thể cứ mãi thế được. Công dân một nước độc lập, tên họ phải lấy làm đầu. Việc trước mắt là đưa tên họ sắc tộc vào nền nếp. Cũng trong tác phẩm trên, Nguyễn Văn Luận cho rằng “Vào năm Minh Mạng thứ 14 (1834), triều đình Huế bắt người Chàm phải theo phong tục Việt nam. Họ phải chọn lấy một trong những tên họ đọc theo ngôn ngữ Việt Nam, gồm có: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Lựu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức, Vạn, Ưng, Lâm, Hải, Báo, Cây, Dương, Quảng, Qua, Trượng, Tưởng, Lư”.

Đây là các họ phổ biến nhất trong Chăm hơn thế kỷ qua. Ừa, tạm được. Dẫu sao, cũng nên nhớ rằng đó chỉ là “họ” mà Minh Mạng đặt cho Cham, chứ không phải “truyền thống” chi chi cả. Quả là nhiêu khê với mênh mông chuyện. Đây là hãy còn chưa bàn đến vụ Chăm theo chế độ gia đình mẫu hệ, nhưng con cái làm khai sinh khai họ cha, càng gia nhiều món cho thêm nỗi rối rắm.

Rối rắm với nhiêu khê, còn hơn là không. Vậy, bạn chọn “họ” nào đặt tên cho đứa con bạn, tùy nghi nhé.