Cùng được trao quyền lực giống nhau, nhưng có người giúp tổ chức đi lên, ngày càng phát triển, người lại khiến chính tổ chức ấy xuống dốc suy vong, có lẽ cũng bởi cách dùng quyền, là “oai”… quyền hay uy quyền. Show
“Oai”… quyền bởi dùng quyền quá cương. Việc gì cũng căng như dây đàn, thích lạm quyền, diễu võ giương oai, đe nẹt, áp chế, cưỡng bức sự phục tùng. Cấp dưới thực tâm không phục, e ngại cái “ghế” của người ngồi, chứ không phải người ngồi trên cái ghế đó. Cấp dưới càng bất tuân, phản kháng thì càng dùng quyền một cách cay độc. Dùng quyền quá cương như vậy, “chẳng chóng thì chày” cũng đổ vỡ. “Oai”… quyền do dùng quyền nhu nhược. Tổ chức trao quyền để người lãnh đạo “danh chính ngôn thuận” điều hành các thành viên của tổ chức phải phục tùng theo ý chí của mình vì nhiệm vụ, lợi ích chung. Nhưng do dùng quyền xuề xòa, thiếu quyết đoán, không biết phát huy quyền lực, bỏ qua các nguyên tắc và thứ bậc công vụ, nên quyền bị khinh nhờn. Hoặc bởi, trên đã trót thiếu ngay ngắn, không nghiêm chỉnh làm gương, nên dưới thành ra “cá mè một lứa”, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Dùng quyền mà “yếu bóng vía” hay không chính đạo như vậy, thì quyền có cũng như không, chiếc áo quyền lực có rộng thông thênh đến đâu cũng vẫn thừa… “oai”, mà thiếu… “uy”! Quyền có uy khi người lãnh đạo quyền biến, cương - nhu, quyết đoán - mềm dẻo hài hòa, khôn ngoan. Uy quyền có được là do có tầm, do trui rèn, do khí chất thiên bẩm của người lãnh đạo, nhưng trên cả là do có tâm, tấm lòng trong sáng, thấu hiểu lòng người. Khi cầm quyền có thực đức, thực tài, công bằng, quang minh chính đại, muôn việc đều vì lợi ích chung, thì khi đó, tự quyền lực có sức hút thu phục lòng người, nhân tâm đồng thuận, một lời nói ra sức mạnh uy phong, tả phù hữu bật, muôn người hưởng ứng, cùng lo toan công việc lớn. Để giữ uy quyền bền lâu, thì người cầm quyền phải giữ được đạo. Uy quyền, cốt ở sự thanh khiết! Đồng thời, quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực. Kiểm soát là chế ngự quyền lực để vừa giải phóng quyền lực, vừa cương tỏa quyền lực. Bản thân việc “mở”, giải phóng quyền lực để quyền lực được thực thi đúng đắn, chính là một hình thức kiểm soát quyền lực tốt nhất. Ngược lại, khi quyền lực như con ngựa bất kham thì lại cần cương tỏa để quyền lực đi chính đạo, phòng, tránh sự ngoắt nghéo, biến dạng và tha hóa./. Quyền lực, được miêu tả theo khía cạnh khoa học xã hội, một mặt là khả năng gây ảnh hưởng của một người hoặc một nhóm người đến hành vi và suy nghĩ của các cá nhân, nhóm người khác với ý nghĩa là "quyền lực"; mặt khác, nó đại diện cho 1 vị trí của cá nhân hoặc nhóm người, là khả năng đạt được mục tiêu xác định một cách đơn phương, không chịu sự kiểm soát, áp đặt, hay phải đáp ứng các điều kiện và đòi hỏi của các cá nhân hoặc nhóm người khác (vd: quyền con người). Vế sau được hiểu theo tính pháp lý với ý nghĩa là "thẩm quyền", "quyền lợi" của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội). Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn của các "khả năng hành động, gây ảnh hưởng" cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hoặc một nhóm người. Việc sử dụng thứ sức mạnh này để gây ảnh hưởng đến cá nhân, nhóm người khác, có thể mang theo những ý nghĩa tích cực cũng như tiêu cực, dựa trên mục đích, nguyên tắc, cách thức sử dụng chúng. Cần phân biệt việc "lạm quyền" và việc "vi phạm giới hạn quyền lực". Lạm dụng quyền lực là việc sử dụng quyền lực mà không tuân theo những mục đích quy định cho sự tồn tại của quyền lực. Việc vượt quá phạm vi giới hạn quyền lực là việc không tuân theo những nguyên tắc, cách thức được quy định sẵn trong quá trình sử dụng quyền lực. Một số khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]Với cách hiểu ý nghĩa của từ quyền lực trong bối cảnh của xã hội loài người trong giai đoạn phát triển mang tính cộng đồng và có nhiều thay đổi bởi sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ ta có thể truy dẫn nguồn gốc của quyền lực dưới các nguồn sau:
Đặc trưng[sửa | sửa mã nguồn]Tính tương tác xã hội[sửa | sửa mã nguồn]Quyền lực đòi hỏi sự tương tác ít nhất của hai chủ thể, tức quyền lực là một quan hệ xã hội. Quyền lực là quá trình tương tác và sẽ không tồn tại cho đến khi nó được thể hiện thành các hành động tương tác của từ hai chủ thể trở lên. Tính mục đích[sửa | sửa mã nguồn]Sự tác động đến chủ thể khác luôn có chú ý cho dù kết quả như thế nào đi chăng nữa. Tính mục đích giúp phân biệt quan hệ của quyền lực (một chiều, có mục đích, có hiệu lực) với sự ảnh hưởng nói chung (hai chiều, không có chủ đích, không chắc chắn và hiệu lực) dù chúng có thể có chung hình thức thể hiện. Tính cưỡng ép[sửa | sửa mã nguồn]Quan hệ quyền lực luôn dựa trên năng lực cưỡng ép (thưởng - phạt) đi kèm, đủ lớn để vượt qua sự chống đối. Đặc trưng này được coi là căn bản vì nó phân biệt quyền lực với các mối quan hệ xã hội có tính mục đích khác như thuyết phục, lừa đảo, dụ dỗ... Tính chính đáng[sửa | sửa mã nguồn]Tính chính đáng bao gồm: tính công ích, tính hợp lệ trong cách thức đạt quyền lực và sử dụng quyền lực đúng mục đích và hiệu quả. Tính cưỡng ép của quyền lực dù có lớn đến đâu cũng chưa đảm bảo hoàn toàn kết quả cuối cùng đạt được theo đúng mục đích vì phụ thuộc vào tính chống đối của chủ thể bị chi phối. Do đó, quyền lực cần có tính chính đáng, được thể hiện ở quá trình và phương thức thuyết phục bằng lý lẽ và lương tri. Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]Theo chủ thể[sửa | sửa mã nguồn]
Theo hình thức[sửa | sửa mã nguồn]French và Raven (1959) đã chia quyền lực theo 4 hình thức như sau:
Theo lĩnh vực[sửa | sửa mã nguồn]
Theo cơ sở của quyền lực[sửa | sửa mã nguồn]
Theo hình thái quyền lực[sửa | sửa mã nguồn]Căn cứ vào phương thức tác động, có thể phân loại quyền lực thành bốn loại hình chính như sau:
Quan điểm khác[sửa | sửa mã nguồn]Với cách hiểu nguồn gốc quyền lực từ góc độ pháp luật, chính trị có thể phân loại quyền lực thành bốn nhóm:
Phương thức giành quyền lực[sửa | sửa mã nguồn]Để đạt quyền lực thực tế các tổ chức, đảng phái có thể sử dụng các phương thức sau:
Quá trình thực thi[sửa | sửa mã nguồn]Quá trình thực thi quyền lực là quá trình nắm giữ, sở hữu các nguồn lực, chuyển hóa quyền lực và vượt qua sự kháng cự. Quyền lực và quyền hạn khác nhau như thế nào?Quyền lực là phương tiện để tác động lên suy nghĩ và hành động của người khác. Ai cũng có khả năng tác động lên suy nghĩ và hành động của người khác, nghĩa là đều có quyền lực. Quyền hạn là quyền lực của ai đó mà chúng ta chấp nhận. Quyền hạn là chính đáng vì nó được thừa nhận một cách hợp pháp. Nguồn gốc của quyền lực là gì?Quyền lực sinh ra từ nhu cầu tổ chức hoạt động chung, nhu cầu phân công lao động xã hội và quản lí xã hội. Quyền lực là điều kiện và phương tiện cần thiết khách quan bảo đảm sự hoạt động bình thường của bất kì cộng đồng xã hội nào. Quyền lực thể hiện mối quan hệ chỉ huy – lệ thuộc hoặc mệnh lệnh – phục tùng. Quyền lực tư vấn là gì?Quyền lực tư vấn thực chất là sức thuyết phục của một người do khả năng cung cấp các lời khuyên sáng suốt và hữu ích với những người khác. TÓM TẮT: Với bất kì nhà quản lí, lãnh đạo nào đều cần có quyền lực. Quyền lực có hai loại: quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân. Quyền lực quốc gia là gì?Quyền lực quốc gia là sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành. Do sự phát triển của quan hệ quốc tế cả về lý luận lẫn thực tiễn, quyền lực đã được bổ sung thêm các yếu tố tinh thần. Đó là những yếu tố phi vật chất, vô hình nhưng có thể làm tăng giảm sức mạnh của quốc gia. |