Tại sao các nhà sư lấy họ thích

Hỏi: Trong các buỗi lễ, khi giới thiệu danh vị của chư tôn đức, tôi thường nghe: Hòa thượng thượng A hạ B, Thượng tọa Thích C D, Đại đức Thích G H, kế đến là các chức vụ. Trong tang lễ hay lễ tưởng niệm (húy nhật) của chư tôn đức, tôi thường nghe vị chủ lễ xướng rằng: Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế, húy thượng A hạ B, tự C D, hiệu G H Hòa thượng Giác linh. Tôi không biết họ Thích cùng với pháp danh, pháp tự, pháp hiệu này có nguồn gốc và ý nghĩa như thế nào? Hàng ngày chư tôn đức thường sử dụng tên nào?

(THIỆN PHƯỚC, )

Bạn Thiện Phước thân mến!

Thời Đức Phật tại thế, chưa có pháp danh, pháp tự, pháp hiệu. Các Tỳ-kheo ở đời mang tên gì, khi vào đạo vẫn giữ nguyên tên đó như Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp.

Khi Phật giáo truyền sang Trung Quốc, ngài Đạo An (312-385) đề xuất lấy họ của Đức Phật (họ Thích-Sakya) làm họ cho người xuất gia, ngài cũng đổi tên là Thích Đạo An. Từ đây về sau, người xuất gia (Trung Quốc và các nước ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc) bắt đầu mang dòng họ Thích.

Tại Việt Nam, các vị thiền sư thời Lý-Trần (theo Thiền uyển tập anh) thường dùng pháp hiệu. Các Thiền sư Viên Chiếu (thế danh Mai Trực), Thiền sư Không Lộ (thế danh Nguyễn Minh Không), Ni sư Diệu Nhân (thế danh Lý Ngọc Kiều)… đều dùng đạo hiệu-pháp hiệu và không mang họ Thích.

Thời Nguyễn, các vị tổ sư, thiền sư thuộc dòng Lâm Tế, Tào Động tuy có pháp danh, pháp hiệu nhưng sử sách vẫn không ghi họ Thích mà thường ghi Tổ sư Nguyên Thiều, Thiền sư Liễu Quán, Thiền sư Chân Nguyên… Mãi đến đầu thế kỷ XX, họ Thích mới được sử dụng phổ biến. Chư vị Tăng Ni đều gắn họ Thích trước pháp danh, pháp tự, pháp hiệu của mình.

Tại các buổi lễ, khi giới thiệu Hòa thượng Thích A B, để tỏ lòng quy ngưỡng và cung kính nên thường giới thiệu là Hòa thượng thượng A hạ B, kế sau là chức vụ. Trường hợp này, họ Thích được giản lược. Các vị Thượng tọa và Đại đức thường được giới thiệu trân trọng là Thượng tọa (Đại đức) Thích C D. Tên của chư vị tôn túc được giới thiệu hầu hết là pháp hiệu.

Pháp danh (húy) do bổn sư đặt khi thế phát xuất gia. Pháp danh được đặt theo phả hệ truyền thừa của mỗi dòng phái. Người am hiểu về kệ truyền thừa của các dòng phái, khi nghe pháp danh có thể nhận ra nguồn gốc thuộc dòng phái nào, đời thứ mấy. Đến khi thọ giới Sa-di, bổn sư ban cho pháp tự. Có những vị bổn sư xuất kệ, sau đó đặt pháp tự cho từng lớp (lứa) đệ tử theo bài kệ. Nhiều vị bổn sư không xuất kệ, tùy theo lớp đệ tử mà đặt pháp tự (có chữ đầu tiên) khác với lớp sau. Thường thì pháp tự được dùng trong khoảng thời gian từ Sa-di cho đến khi thọ giới Tỳ-kheo (hoặc cho đến khi có pháp hiệu).

Sau khi thọ Cụ túc giới, chính thức trở thành Tỳ-kheo thì bổn sư ban cho pháp hiệu. Trong một vài trường hợp, pháp hiệu có thể do những vị y chỉ sư, giáo thọ sư hay chư Tăng ban tặng, hoặc cũng có thể tự xưng rồi sau đó trình lên các bậc thầy và được xác chứng. Pháp hiệu được bổn sư hoặc chư Tăng ban cho thường dựa vào công hạnh hoặc một đặc điểm nổi bật nào đó của vị Tỳ-kheo.

Từ đây về sau, pháp hiệu được chư Tăng Ni sử dụng trong đời sống thường nhật. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp vị Tăng Ni không có pháp hiệu, pháp tự hoặc tuy có pháp hiệu, pháp tự nhưng vẫn sử dụng pháp danh. Việc dùng pháp danh, pháp hiệu hay pháp tự là do chủ kiến cá nhân của mỗi vị Tăng Ni hoặc do tập quán của chư Tăng Ni ở từng khu vực, vùng miền. Đa phần thì chư tôn đức Tăng Ni dùng pháp hiệu.

Trong tang lễ hay các lễ tưởng niệm (húy nhật-giỗ) của các vị Hòa thượng, vị chủ lễ xướng: Lâm Tế chánh tông, vị này thuộc tông Lâm Tế (do Thiền sư Lâm Tế-Nghĩa Huyền [? – 866/867] khai sáng tại Trung Quốc). Tứ thập nhị thế nghĩa là đời thứ 42, tính từ Thiền sư Lâm Tế. Húy thượng A hạ B chính là pháp danh, tự C D là pháp tự, hiệu G H là pháp hiệu của Hòa thượng.

Chúc bạn tinh tấn!

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Pháp danh theo Phật giáo Đại thừa của người Việt là tên được vị Sư đặt cho một người theo đạo Phật phát nguyện làm lễ quy y Tam Bảo và thọ năm giới căn bản gồm:

  1. Không sát sanh
  2. Không trộm cắp
  3. Không tà dâm
  4. Không nói dối
  5. Không uống rượu

Khi quy y, tín đồ nguyện sống theo đạo lý của nhà Phật. Người nào dù không đi tu mà phát nguyện theo Tam bảo đều được ban pháp danh.

Pháp danh là do vị sư chứng giám đặt cho người thụ lễ như một thể thức truyền thừa cho đệ tử một lý tưởng chung. Vì vậy pháp danh thường chiếu theo một hệ thống rút từ kinh điển ví dụ như một bài kệ, một câu kinh, dùng một chữ chung khởi đầu. Những chữ thường dùng là Phúc, Huệ, Diệu, Tâm, Trí, Tuệ với ý nghĩa cao đẹp. Hoặc đặt pháp danh theo dòng phái của các vị Tổ Sư truyền kệ nối pháp, theo thứ tự chữ của từng đời như Liễu Quán Tổ Sư có kệ rằng: “Thiệt Tế Đại Đạo, Tánh Hải Thanh Trừng, Tâm Nguyên Quảng Nhuận, Đức Bổn Từ Phong,...”

Pháp danh được dùng trong mọi việc giữa cá nhân đó và nhà chùa từ lúc sinh thời cho đến sau khi mất.

Phân loại: pháp danh, pháp tự, pháp hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Phật giáo thì cần phân biệt pháp danh, pháp tựpháp hiệu. Người Phật tử nhận Pháp danh khi thụ năm giới; nhận Pháp tự khi thụ 10 giới; và Pháp hiệu khi làm Tỳ kheo[1] tức xuất gia đi tu. Pháp hiệu ở miền Trung đặc biệt là xứ Huế, là do vị sư phụ truyền cho người xuất gia tu tập khi đạt đạo. Chữ được rút lấy từ kệ truyền với như lời nhắn nhủ đệ tử. Ngoài ra pháp hiệu là sợi dây nối kết với nhưng những vị tiên Sư trước đó.

Nam giới đi tu ngày nay nhất thể lấy thêm họ "Thích", còn nữ giới gọi là Ni thì lấy "Thích Nữ" để nhấn mạnh địa vị đệ tử của đức Thích Ca. Lệ này có từ thế kỷ thứ IV do thiền sư Đạo An người Trung Hoa khởi xướng. Tuy nhiên đối với người Việt thì Pháp tự hay Pháp hiệu dùng chữ "Thích" thì đến thế kỷ XX mới xuất hiện. Có nguồn cho rằng Điều-Ngự-Tử Thích-Mật-Thể khi ký tên trong văn liệu cuốn Việt-Nam Phật Giáo Sử Lược ấn hành năm 1943 có thể đã khởi xướng lệ dùng chữ Thích như họ đối với Tăng chúng Việt Nam.

Pháp hiệu cũng do vị sư chứng giám đặt cho người đi tu. Tăng ni khi nhận một vị thầy khác cũng có thể nhận pháp danh và pháp hiệu mới.

Thể thức tên gọi, Pháp danh, Pháp tự và Pháp hiệu
Thế danh Pháp danh Pháp tự Pháp hiệu
Nguyễn Văn Kỉnh Trừng Thông Chơn Thường Thích Tịnh Khiết
Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN
Lâm Văn Tuất Thị Thủy Hành Pháp Thích Quảng Đức[2]
Đỗ Thị Cửu Nguyên Huệ Diệu Định Thích Nữ Diệu Định[3]
Lê Đình Nhàn Như An (1935)
Ngọc Tân (1937)
Tịnh Bạch Thích Huyền Quang
Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN[4]
Nguyễn Đình Lang Trừng Quang Phùng Xuân Thích Nhất Hạnh

"Pháp danh" trong những truyền thống khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ở Trung Hoa những người theo đạo Lão như các đạo sĩ cũng có pháp danh.

Ở Nhật Bản thì tương đương pháp danh là "giới danh" (戒名, kaimyō). Ai quá cố cũng được nhà chùa ban cho giới danh để dùng khi cúng lễ.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Pháp danh"

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "Từ ngữ xưng hô Phật giáo" tr 16” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2018.
  2. ^ "Tiểu sử Bồ tát Thích Quảng Đức
  3. ^ "Thánh tử đại vị pháp thiêu thân..."”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2018.
  4. ^ "Hòa thượng Thích Huyền Quang"