Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa

Cơ hội và thách thức của khoa học công nghệ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

Đời sống cập nhật

Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và là một xu thế tất yếu đối với sự phát triển của thế giới ngày nay. Vai trò của nó đang ngày càng được khẳng định trong việc thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh mà không một quốc gia nào nằm ngoài xu thế đó. “Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối quan hệ có ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực các quốc gia, các dân tộc trên thế giới”.

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối quan hệ có ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực các quốc gia, các dân tộc trên thế giới

Như vậy toàn cầu hoá vừa là cơ hội to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia ,đồng thời cũng tạo ra những thách thức mà nếu không chuẩn bị nội lực và bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa tên con đường tiến tới văn minh của nhân loại.

Trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới, khoa học và công nghệ luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất và hiển nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực này cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ, nhất là ở các nước đang phát triển như Việt Nam.

Đảng và Nhà nước ta đã xác định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu trong chính sách phát triển quốc gia. Tuy nhiên để sự phát triển này đi đúng lộ trình và xu thế của thế giới cần phải nhận diện rõ những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với lĩnh vực này.

Về cơ hội

Trước hết, toàn cầu hóa giúp khoa học và công nghệ Việt Nam từng bước hội nhập, giao lưu với nền khoa học công nghệ của thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam học tập kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ thế giới phục vụ cho sự phát triển của kinh tế- xã hội của đất nước. Việc chuyển giao các dây chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến của thế giới vào từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam như: Công nghệ sản xuất ô tô (Nhà máy ô tô Trường Hải tiếp nhận dây chuyền chuyển giao của Hyundai về sản xuất ô tô), công nghệ sản xuất thiết bị di động cầm tay, chip và các sản phẩm viễn thông (Samsung Việt Nam), các công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao (Công nghệ tưới nhỏ giọt theo tiêu chuẩn Israel), công nghệ xây dựng cầu đường và đặc biệt công nghệ thông tin trong các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng đã góp phần đưa các ngành này từng bước tiếp cận và đạt đến trình độ của thế giới.

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự đầu tư của các nước tiên tiến có nền khoa học và công nghệ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore

Toàn cầu hóa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự đầu tư của các nước tiên tiến có nền khoa học và công nghệ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo. Sự tham gia liên doanh, liên kết trong hoạt động khoa học và công nghệ với các đối tác nước ngoài giúp cho các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có cơ hội tiếp cận với khoa học và công nghệ cao mà qua đó từng bước thu hẹp khoảng cách về kiến thức, kỹ năng nghiên cứu phát triển cũng như nâng cao năng lực sáng tạo khoa học-công nghệ của cá nhân và nền khoa học và công nghệ trong nước. Các chương trình hợp tác đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, có khả năng tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới sẽ góp phần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ những người làm khoa học hiện có và phát triển đội ngũ các nhà khoa học công nghệ trẻ kế tục sự nghiệp phát triển nền khoa học và công nghệ quốc gia ngày càng hiện đại hơn.

Những khó khăn và thách thức:

Toàn cầu hóa khiến cho các sản phẩm khoa học –công nghệ của nước ngoài đặc biệt là của các nước tiên tiến như Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Châu Âu xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường trong nước khiến cho nền khoa học công nghệ Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt. Đặc biệt, nó làm nẩy sinh các vấn đề tranh chấp mới liên quan đến sở hữu trí tuệ, bản quyền, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp – những lĩnh vực mà nước ta đang ở trình độ phát triển rất thấp so với họ. Sự chênh lệch về trình độ phát triển KH&CN quá lớn trong một sân chơi có sự cạnh tranh gay gắt khiến cho sự thua thiệt và yếu thế luôn nằm về phía các nhà KH&CN Việt Nam. Chẳng hạn sự thống trị của giống lúa lai Trung quốc trên thị trường giống lúa trong nước là bằng chứng rõ nhất về những thách thức của nền KH&CN Việt Nam cho dù các giống lúa do các nhà khoa học Việt Nam tạo ra không thua kém gì về chất lượng. Đây là một thách thức rất lớn của không chỉ riêng ngành khoa học và công nghệ.

Hiện nay, các sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam, dù đã được cải tiến và đổi mới nhiều, song phần lớn vẫn sử dụng những công nghệ cũ, lạc hậu. Việc đổi mới công nghệ so với mặt bằng chung vẫn còn chậm. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, việc đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ bị hạn chế khiến cho các sản phẩm khoa học và công nghệ vẫn bị tụt hậu so với thế giới, làm giảm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này. Mặt khác việc đổi mới công nghệ không chỉ đơn giản là thay máy cũ bằng máy mới mà còn phải đổi mới cả một hệ thống quản lý cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao đi kèm mà những điều này vẫn còn thiếu và yếu. Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến 2020 đã đặt ra yêu cầu tốc độ đổi mới công nghệ phải đạt 15-20% mỗi năm, nghĩa là sau khoảng 5 năm các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới được một thế hệ công nghệ. Thực tế, đây là con số quá cao nhưng mặt khác cũng lại được coi là quá thấp đối với khoa học và công nghệ Việt Nam.

Khung hành lang pháp lý, việc hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách để bảo đảm Luật KH&CN được triển khai sâu rộng vào cuộc sống, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, đưa KH&CN thực sự trở thành lực lượng sản xuất quan trọng để phát triển kinh tế vẫn còn nhiều bất cập. Việc ban hành các văn bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư hướng chậm chạp, khiến cho quá trình thực hiện Luật KH&CN gặp nhiều khó khăn.

Đầu tư để phát triển khoa học và khoa học tuy đã có nhiều chuyển biến, được chú trọng nhưng mới chỉ đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước- một con số quá thấp so với nhu cầu của hoạt động khoa học và công nghệ. Các nước tiên tiến đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là nghiên cứu các sản phẩm khoa học ứng dụng luôn đạt từ 3 – 5% ngân sách. Rõ ràng sự chênh lệch về vốn đầu tư cho KH&CN cũng đã là một thách thức lớn cho nền KH&CN Việt Nam .

Đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học đầu ngành còn thiếu và yếu, thiếu các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý khoa học nhất là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế. Việc nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác khoa học không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà đòi hỏi nhiều thời gian và tâm sức cũng là những thách thức không nhỏ cho việc phát triển nền KH&CN nước nhà

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa

Lời kết

Để “khoa học-công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất. Phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến trên thế giới.”, cần thiết phải ưu tiên, tập trung đầu tư trước một bước cho KH&CN, đồng thời đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế tài chính nhằm giải phóng năng lực sáng tạo của nhà khoa học-công nghệ, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống. Giải pháp đưa ra là tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; Liên kết 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông. Tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ cao phải là hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Có như vậy nền KH&CN Việt Nam mới không lạc lõng và tụt hậu so với thế giới.

Ngô Thanh Tứ


Khoa học và công nghệ - động lực phát triển kinh tế -xã hội

Bài 1: Thực hiện nhất quán khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu

(ĐCSVN) - Trong văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã đưa khoa học và công nghệ (KH&CN) lên tầm mức mới với khẳng định “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”, “Khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”. Những quan điểm này tiếp tục được tái khẳng định trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu bấm nút khai mạc Ngày hội Đổi mới sáng tạo quốc gia năm 2020.

Khẳng định vai trò, vị trí của KH&CN

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, nguồn nhân lực chất lượng cao, KH&CN và đổi mới sáng tạo (ĐMST) trở thành yếu tố đầu vào quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, là chìa khóa quyết định tốc độ, chất lượng phát triển của các quốc gia và nền kinh tế. Tại Việt Nam, vai trò của KH&CN trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Nghị quyết Trung ương 6, khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW), Kết luận số 50-KL/TW của Ban Bí thư năm 2019 và nhiều văn kiện, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương khóa XII đã tái khẳng định KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển nguồn nhân lực, KHCN&ĐMST là một trong các đột phá chiến lược được nhấn mạnh tại các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng khóa XIII.

Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 năm 2020, chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong bài viết "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Ðại hội XIII của Ðảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới" đã nhấn mạnh quan điểm: "Thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế".

Văn kiện Đại hội XII đặt ra nhiệm vụ “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là thực tiễn nóng hổi rất sinh động, phong phú để chúng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung và làm sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút từ những nhiệm kỳ trước. Dự thảo Văn kiện trình Ðại hội XIII của Ðảng chứa đựng nhiều điểm mới rất phong phú, toàn diện và sâu sắc, trong đó, các quan điểm phát triển KH&CN tiếp tục được nhấn mạnh, cụ thể “Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chiến lược phát triển KH&CN phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Thực tiễn cho thấy, KH&CN đang từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực KH&CN của đất nước được tăng cường. Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam. Hiệu quả hoạt động KH&CN được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo...

Nhiều thành tựu đột phá

Có thể khẳng định, KH&CN đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần chuyển dịch mô hình tăng trưởng và thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam gần đây đang giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô và mở rộng tín dụng. Bằng chứng là tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm và tăng lên 5,8% giai đoạn 2016-2018. KH&CN đã đóng góp trên 30% tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Với lĩnh vực công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ tăng từ 26% năm 2010 lên trên 40% năm 2019. 3 khu công nghệ cao là Hòa Lạc, TP.HCM và Đà Nẵng đã thu hút tổng số vốn đăng ký hàng chục tỷ USD, tạo việc làm cho khoảng 50.000 lao động.

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Đầu tư cho KH&CN những năm qua đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp KH&CN.

Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa ra mục tiêu: “Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 30 - 35%”. Thực tế, chỉ số TFP tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020, tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020; Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm (cao hơn nhiều mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015).

Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) của Việt Nam (GII) liên tục tăng vượt bậc, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN, năm 2020, xếp thứ 42/131 quốc gia.

Hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Nguồn vốn đầu tư cho khởi nghiệp ĐMST tăng nhanh. Hiện có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam (Thống kê ước tính từ Topica Founder Institute 2012-2019). 2 năm gần đây, số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tăng trưởng cao, đạt xấp xỉ 1 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2017, đưa Việt Nam trở thành quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo (Theo báo cáo của ESP Capital năm 2019).

Số lượng bài báo ISI (Thống kê trên ISIKNOWLEDGE) của Việt Nam tăng đều hàng năm. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN. Tốc độ tăng trưởng bình quân công bố quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 là 25,68%/năm. Tại Đông Nam Á, giai đoạn này, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam đứng thứ 5 với tổng số 48.366 công bố, xếp sau Thái Lan với 87.971 công bố. Trong năm 2020 công bố quốc tế của Việt Nam có xu hướng tăng mạnh, khi số lượng công bố của 10 tháng đầu năm đã vượt 16% so với năm 2019.

Trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Trong bối cảnh môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách lớn thể hiện qua Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư”; Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi (CGCN), Các Chương trình quốc gia phát triển KH&CN,…

Sau khi Luật CGCN có hiệu lực thi hành (01/7/2018) với quy định các hợp đồng CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam phải thực hiện đăng ký CGCN, số lượng các hợp đồng CGCN được cấp Giấy chứng nhận đăng ký tăng mạnh so với giai đoạn trước (105 hợp đồng với tổng giá trị khoảng 19.000 tỷ đồng, trung bình khoảng 181 tỷ đồng/hợp đồng). Các hợp đồng CGCN chủ yếu là chuyển giao từ nước ngoài vào cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực về ô tô, xe máy, điện tử, hóa chất, thiết bị y tế, sản xuất thuốc, chế biến thực phẩm.

Đầu tư cho KH&CN những năm qua đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong đóng góp của xã hội, nhất là từ khu vực doanh nghiệp. Nếu như khoảng 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động KH&CN chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (NSNN) (khoảng 70% tổng đầu tư cho KH&CN), thì đến nay đầu tư cho KH&CN từ NSNN và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.

KH&CN đã góp phần giải quyết những thách thức, vấn đề cuộc sống đặt ra. Bằng chứng là rất nhiều kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao và phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như đời sống xã hội. Đầu năm 2020, Bộ KH&CN đã huy động lực lượng các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp triển khai theo quy trình đặc biệt thực hiện các nhiệm vụ KH&CN phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19, cụ thể: Nghiên cứu chế tạo thành công bộ sinh phẩm RT-PCR và realtime RT-PCR phát hiện chủng mới của vi rút corona 2019 (SARS-CoV-2); Nuôi cấy và phân lập thành công virus SARS-CoV-2; Thu thập, tổng hợp các công bố khoa học quốc tế mới nhất về SARS-CoV-2 để cung cấp cho các nhóm nghiên cứu tham khảo và hỗ trợ đặt hàng các nhiệm vụ nghiên cứu cấp thiết phục vụ phòng chống dịch; Nghiên cứu, sản xuất và thử nghiệm thành công sản phẩm robot gồm: VIBOT-1a hỗ trợ y tế và chế tạo, thử nghiệm thành công robot NaRoVid11a.

Về ghép tạng, chỉ có 6 tạng: thận, gan, tim, tụy, phổi và ruột. Chúng ta đi sau thế giới khoảng 40-50 năm nhưng tính đến nay, Việt Nam đã ghép thành công cả 6 tạng gồm thận, gan, tim, ghép khối tụy – thận, phổi và tháng 10 năm 2020 đã thực hiện thành công ca ghép ruột đầu tiên. Những thành tựu này là bước tiến của nền y học Việt Nam, đồng thời khẳng định hiệu quả đầu tư cho KH&CN thời gian qua.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã coi phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào KHCN&ĐMST và chuyển đổi số là một trong các đột phá chiến lược quan trọng nhất trong giai đoạn tới, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong đó, cần “Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo”.

Với việc xác định “vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chính là nguồn động lực mới, to lớn để đất nước ta phát triển nhanh, bền vững hơn” và việc nắm bắt, tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, cùng với khát vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm chính trị cao, có thể tin tưởng rằng, Việt Nam sẽ đi tắt, đón đầu, phát triển KHCN&ĐMST để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước, thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam:

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực, để KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới, thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo:

(1) Quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả, đồng bộ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KH&CN mà Nghị quyết Trung ương đề ra;

(2) Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH&CN, tạo động lực thúc đẩy ứng dụng KH&CN;

(3) Tiếp tục tái cơ cấu các chương trình KH&CN quốc gia; ứng dụng các thành tựu KH&CN tiên tiến của thế giới để phát triển các sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh cao của quốc gia;

(4) Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển, ứng dụng KH&CN hiện đại;

(5) Thúc đẩy phát triển mạnh thị trường KH&CN và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo;

(6) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển KTXH.

(Nguồn: Phim tài liệu: “Hướng tới Đại hội Đảng XIII”-Tập 5, VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam).

Bài, ảnh: Nguyễn Hạnh

Khoa học và công nghệ - nguồn lực quan trọng của phát triển kinh tế

(ĐCSVN) - Cùng với các nguồn lực về lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên…, khoa học và công nghệ được coi là nguồn lực quan trọng, có tác động lớn đối với phát triển kinh tế.

KH&CN góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Thực tiễn cho thấy, khoa học và công nghệ (KH&CN) góp phần rất quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến tổng cung và tổng cầu; các sản phẩm KH&CN đóng góp trực tiếp vào GDP. Sự phát triển của KH&CN có tác động mang tính quyết định đối với tăng trưởng dài hạn và chất lượng tăng trưởng.

Cụ thể, KH&CN tạo điều kiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. KH&CN phát triển với sự ra đời của hàng loạt công nghệ mới, hiện đại như: vật liệu mới, công nghệ nano, công nghệ sinh học, điện tử viễn thông… đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào. KH&CN làm tăng các yếu tố của sản xuất - kinh doanh, theo đó làm tăng thu nhập và dẫn đến sự gia tăng chi tiêu cho tiêu dùng dân cư và tăng đầu tư cho cả nền kinh tế. KH&CN phát triển làm tăng khả năng tiếp cận của con người với tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ qua các phương tiện thông tin và dịch vụ vận chuyển. Do vậy, trong thời đại ngày nay, phần đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế của nhiều nước từ KH&CN rất cao.

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Ảnh minh họa.

KH&CN cũng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Trong các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thì KH&CN có vai trò đặc biệt quan trọng. KH&CN làm thay đổi cơ cấu sản xuất, phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn và phân chia thành các ngành nhỏ, làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, lĩnh vực mới. Cơ cấu trong nội bộ ngành cũng thay đổi. Khi thay đổi sản xuất theo hướng tăng năng suất và hiệu quả sẽ tạo ra khả năng thay đổi cơ cấu tiêu dùng do thu nhập tăng. Tỷ trọng và vị trí GDP của công nghiệp và dịch vụ tăng dần, nông nghiệp giảm dần. Đồng thời, KH&CN góp phần tăng năng suất các nhân tố tổng hợp. Nhờ tác động của các yếu tố như đổi mới công nghệ, hợp lý hóa quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ cải tiến phương pháp quản lý, nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc của người lao động…, tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) làm cải thiện và nâng cao chất lượng tăng trưởng, từ đó góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Tại các nước phát triển, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP thường rất cao (trên 50%), với các nước đang phát triển khoảng 20-30%.

KH&CN cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế. Một quốc gia có tiềm lực KH&CN sẽ là quốc gia có sức cạnh tranh quốc tế cao. Năng lực sáng tạo công nghệ là một trong những tiêu chí cơ bản để xếp hạng năng lực cạnh tranh của quốc gia đó. Việc ứng dụng KH&CN làm cho các yếu tố đầu vào, nhất là TFP được nâng cao và có hiệu quả hơn, quy mô sản xuất và tiêu dùng ngày càng được mở rộng, tạo ra thị trường mới, hướng về xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực.

Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu và động lực của doanh nghiệp là lợi nhuận. Do đó,các doanh nghiệp luôn hướng tới giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, buộc phải áp dụng các tiến bộ KH&CN thì sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất của người lao động, giảm chi phí, tạo lợi thế cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường ngoài nước, từ đó tối đa hóa lợi nhuận.

Thành tựu KH&CN trong phát triển kinh tế đất nước

Sau gần 35 năm đổi mới, KH&CN nước ta đã có sự chuyển biến tích cực với nhiều thành tựu trong nghiên cứu, điều tra, góp phần tạo luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường. KH&CN gắn bó với sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của tất cả các ngành, lĩnh vực.

KH&CN đã thể hiện rõ vai trò là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước. Giai đoạn 2015 - 2020, năng suất lao động được nâng lên thể hiện qua chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên 44,46% giai đoạn 2016 - 2019), tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu đạt 50% năm 2020.

3 khu công nghệ cao quốc gia là Hòa Lạc, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã thu hút hàng trăm dự án đầu tư với số vốn hàng chục tỷ USD. Nguồn lực tài chính từ xã hội và doanh nghiệp cho KH&CN tăng, thể hiện qua tỉ trọng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp là 52/48 so với tỉ lệ 70/30 của hơn 5 năm trước.

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Khu công nghệ cao Hòa Lạc. (Ảnh: kinhtevn.com.vn)

Vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo ngày càng trở nên quan trọng. Thị trường công nghệ được thúc đẩy phát triển, cả nước có 15 sàn giao dịch công nghệ, 50 vườn ươm công nghệ, 186 tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp và mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN trên toàn quốc.

Những đóng góp của KH&CN còn thể hiện qua chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục tăng. Năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng 2 bậc, năm 2019 tăng tiếp 3 bậc, xếp thứ 42 trên 129 quốc gia, đưa Việt Nam vươn lên dẫn đầu nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 ASEAN.

Bên cạnh đó, cơ chế quản lý KH&CN từng bước đổi mới phù hợp với thực tiễn. Trình độ nhận thức và ứng dụng KH&CN của toàn xã hội ngày càng được nâng cao.

Đẩy mạnh phát triển KH&CN đáp ứng yêu cầu mới

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN… Khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng KH&CN… Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức khoa học, công nghệ công lập”.

Dự thảo Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2020 trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu định hướng, giai đoạn 2021 - 2030: “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo”.

Có thể thấy, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững và lâu dài, Việt Nam xác định KHCN là một trong những giải pháp trọng yếu mà để thực hiện cần có các bước triển khai đồng bộ, trong đó:

Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Tại sao cách mạng khoa học công nghệ lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
Cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực KH&CN. (Ảnh:nhandan.com.vn)

Tiếp tục hoàn thiện và thúc đẩy thị trường KH&CN phát triển. Phát triển các yếu tố thể chế thị trường khoa học và công nghệ: hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động của thị trường KH&CN; nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi sở hữu trí tuệ, phát triển các dịch vụ KH&CN, thúc đẩy cung và tăng cầu các sản phẩm KH&CN…

Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư cho phát triển KH&CN. Xã hội hóa và đa dạng hóa các nguồn vốn cho hoạt động KH&CN, đặc biệt tăng cường nguồn vốn từ doanh nghiệp.

Phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Đẩy nhanh và đào tạo lại đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là cho các ngành kinh tế trọng yếu và các ngành khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao.

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ; đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ./.

G.Hưng

Mục lục

  • 1 Lịch sử của toàn cầu hoá
  • 2 Ý nghĩa của toàn cầu hóa
  • 3 Biểu hiện của toàn cầu hóa
  • 4 Tác động của toàn cầu hoá
    • 4.1 Khía cạnh kinh tế
    • 4.2 Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ
    • 4.3 Khía cạnh chính trị
  • 5 Phản ứng xung quanh toàn cầu hoá
    • 5.1 Chống toàn cầu hoá
    • 5.2 Ủng hộ toàn cầu hoá (chủ nghĩa toàn cầu)
  • 6 Xem thêm
    • 6.1 Kinh tế và thương mại
    • 6.2 Chính trị
    • 6.3 Truyền thông
    • 6.4 Lĩnh vực khác
  • 7 Chú thích
  • 8 Thư mục
  • 9 Liên kết ngoài
    • 9.1 Tiếng Việt
    • 9.2 Tiếng Anh
    • 9.3 Tiếng Pháp
    • 9.4 Các ấn bản tin tức