Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Những thông tin chi tiết về quá trình hô hấp sáng sẽ được tìm hiểu kĩ trong chương trình Sinh học lớp 11. Vậy thì hô hấp sáng là gì? Mối quan hệ giữa hô hấp sáng và quang hợp là gì?

Các bạn hãy mau chóng lướt ngay xuống bài viết dưới đây để cùng GiaiNgo tìm hiểu ngay nhé!

Bạn đang xem: Hô hấp sáng là gì

Hô hấp sáng là gì?

Ở phần đầu tiên, chúng ta sẽ cùng nhau đi vào tìm hiểu khái niệm về hô hấp sáng là gì nhé!

Hô hấp sáng là gì?

Hô hấp sáng là quá trình hấp thụ oxi và giải phóng khí CO2 ngoài ánh sáng. Bên cạnh đó, hô hấp sáng còn có tên gọi khác là quang hô hấp. Quá trình này xảy ra đồng thời với quá trình quang hợp.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Đặc biệt, hô hấp sáng thường xảy ra ở động vật C3 trong điều kiện cường độ ánh sáng cao và cường độ quang hợp cao. Ngoài ra, quá trình này còn cần CO2 ở lục lạp cạn kiệt và O2 tích lũy nhiều trong lục lạp.

Nơi xảy ra hiện tượng hô hấp ánh sáng là ở bào quan. Đầu tiên xảy ra bắt đầu ở lục lạp rồi đến peroxixom và cuối cùng kết thúc tại ty thể.

Diễn biến của hô hấp sáng?

Diễn biến của hô hấp sáng được biểu diễn tại lục lạp, perixixom và ty thể. Trước hết, diễn biến của hô hấp sáng tại lục lạp được biểu diễn như sau:

  • CO2 + RiDP (nồng độ CO2 cao) → 2APG → Quang hợp.
  • O2 + RiDP (nồng độ O2 cao) → 1APG + 1AG → Quang hợp + Hô hấp sáng.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Kế tiếp, diễn biến hô hấp ánh sáng tại peroxixom được diễn ra khá phức tạp. Trước tiên, axit glicolic bị oxi hóa bởi O2 và tạo thành axit glioxilic thông qua sự xúc tác của enzim glicolat-oxidase.

Bên cạnh đó cũng đồng thời cũng tạo thành H2O2 và H2O2 sẽ bị phân huỷ bởi catalase để tạo thành H2O và O2. Tiếp theo, axit glioxilic sẽ chuyển thành glyxin thông qua phản ứng chuyển vị amin. Sau đó glyxin sẽ được chuyển vào ty thể.

Tham khảo thêm: Mục Đích Của Địa Chỉ Mạng Là Gì ? (Còn Gọi Là Địa Chỉ Mạng Con)

Cuối cùng, diễn biến hô hấp ánh sáng còn được diễn ra tại ty thể. Glyxin chuyển thành xerin nhờ xúc tác của enzime kép-glycin decacboxylaza và serin hydroxylmetyl transferase. Tiếp đó, serin lại biến đổi thành axit glyoxilic để chuyển sang lục lạp.

Xem thêm:

  • Cường độ ánh sáng ảnh hưởng đến quang hợp như thế nào?
  • Quang hợp là gì? Vai trò của quá trình quang hợp ở thực vật
  • Tại sao lá cây có màu xanh? Những thông tin thú vị về màu xanh của lá cây

Hô hấp sáng có lợi hay có hại?

Hô hấp sáng vừa đem lại nhiều mặt lợi nhưng cũng đồng thời để lại nhiều hậu quả.

Hậu quả của hô hấp sáng là gì?

Hậu quả của hô hấp sáng đã gây ra sự lãng phí sản phẩm của quang hợp. Không chỉ vậy, sự hô hấp ánh sáng đã hình thành được một số axit amin cho cây glixerin và serin.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Không chỉ vậy, hô hấp sáng không tạo ra năng lượng và còn làm tiêu tốn quá nhiều sản phẩm của quá trình quang hợp. Bên cạnh đó, quá trình này còn tạo ra một sản phẩm phụ, đó là amoniac. Đây là một chất vô cùng độc hại đối với môi trường.

Quá trình hô hấp cũng sẽ làm hao hụt cacbon và nitơ. Vì vậy có thể dẫn tới việc làm giảm hiệu suất quang hợp của cây, khiến lá cây trở nên úa và héo. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng của cây cũng bị giảm đi đáng kể.

Vai trò của hô hấp sáng là gì?

Vai trò của hô hấp sáng là có thể thủ tiêu toàn bộ lượng ATP và NADPH dư thừa trong pha sáng của quang hợp. Nhờ đó mà không thể thực hiện các phản ứng oxi hóa quang và sản sinh ra các gốc tự do làm hại đến thành phần cấu trúc của tế bào.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Không những thế, năng lượng được thải ra ở dạng nhiệt duy trì nhiệt độ thuận lợi cho các hoạt động sống của cơ thể. Năng lượng được tích lũy trong ATP được dùng để vận chuyển vật chất trong cây. Từ đó kích thích sự sinh trưởng, tổng hợp chất hữu cơ, sửa chữa những hư hại của tế bào.

Quan hệ giữa hô hấp ánh sáng và quang hợp?

Quan hệ giữa hô hấp ánh sáng và quang hợp là trái ngược nhau. Tuy nhiên chúng phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với nhau. Trước hết, sản phẩm của quang hợp sẽ là nguyên liệu của hô hấp và chất oxi hóa trong hô hấp.

Xem thêm: Đầu nối BNC là gì | Jack BNC là gì | BNC là gì

Không những thế, sản phẩm của hô hấp sáng sẽ là nguyên liệu để tổng hợp nên C6H12O6 và giải phóng oxi trong quang hợp. Đặc biệt, cả hai đều có chung rất nhiều sản phẩm trung gian và nhiều hệ enzyme.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Phương trình tổng quát của hô hấp ánh sáng và quang hợp được biểu diễn như sau:

  • Hô hấp ánh sáng: C6H12O6 + 6O2 → 6CO2 + 6H2O + năng lượng (nhiệt + ATP).
  • Quang hợp: 6CO2 +12H2O (tác nhân ánh sáng, diệp lục) → C6H12O6 +6O2.

Vì sao nói hô hấp sáng gắn liền với thực vật C3?

Nói hô hấp sáng gắn liền với thực vật C3 vì chúng kiệm nước bằng cách giảm độ mở của khí khổng. Chính điều này làm O2 khó thoát ra ngoài và CO2 khó đi từ ngoài vào trong.

Hô hấp sáng sử dụng 20% – 50% sản phẩm của quang hợp làm nguyên liệu. Vì vậy nên làm giảm tối đa một nửa năng suất quang hợp.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Quá trình hô hấp sáng là bổ sung CO2 còn thiếu ở thực vật. Vì thế, nó chỉ diễn ra ở những loài thực vật có điểm bù CO2 cao như C3. Còn đối với những loài có điểm bù CO2 thấp thì quá trình này sẽ không xảy ra.

Tuy nhiên, hô hấp sáng lại là quá trình tất yếu của hầu hết thực vật bậc thấp và bậc cao. Chức năng quan trọng của nó là cung cấp cho thực vật một số sản phẩm nhất định mà các quá trình khác không sản xuất được, ví dụ như một số axit min.

Hô hấp sáng bị triệt tiêu hoặc bị làm giảm trong thực vật C4 và CAM

Hô hấp sáng bị triệt tiêu hoặc bị làm giảm trong thực vật C4 và CAM vì lý do rất dễ nhận thấy. Thực vật C4 và thực vật CAM luôn có một kho dự trữ khí CO2 là axit malic nên luôn đảm bảo nồng độ khí CO2 cao. Do đó E Rubisco không có hoạt tính oxygenaza nên không có hô hấp sáng.

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

Bên cạnh đó, thực vật CAM sử dụng sản phẩm cuối cùng của quá trình quang hợp được tích lũy dưới dạng tinh bột. Sở dĩ chúng làm vậy để làm nguyên liệu tái tạo chất nhận CO2 của chu trình CAM, làm giảm chất hữu cơ tích lũy trong cây và năng suất thấp.

Như vậy, thông qua bài viết trên, chắc hẳn các bạn đã biết hô hấp sáng là gì rồi phải không? Vậy thì các bạn còn chần chừ gì nữa mà không nhanh tay theo dõi GiaiNgo ngay để cập nhật thêm nhiều điều mới lạ hơn nhé!

Tham khảo thêm: Phương châm là gì? Phương châm sống có cần thiết với bạn hay không?

do nó tạo ra các sản phẩm cần thiết cho hoạt động khác đặc biệt chất H\(_2\)O\(_2\) (nước oxi già) chất khử mạnh, bảo vệ cây và ánh sáng mạnh ở pha sáng tạo ra quá nhiều sản phẩm, hô hấp sáng sẽ thủ tiêu toàn bộ lượng NADPH và ATP dư thừa trong pha sáng của quang hợp, nhờ đó không cho chúng thực hiện các phản ứng ôxi hóa quang sản sinh ra các gốc tự do làm hại đến thành phần cấu trúc của bào quan và tế bào

Đua top nhận quà tháng 4/2022Đại sứ văn hoá đọc 2022

Hãy luôn nhớ cảm ơnvote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

thutran3024 rất mong câu trả lời từ bạn. Viết trả lời

Tại sao hô hấp sáng làm giảm hiệu quả quang hợp

XEM GIẢI BÀI TẬP SGK SINH 11 - TẠI ĐÂY

Hô hấp sáng, quang hô hấp hay hô hấp ánh sáng là một quá trình hô hấp xảy ra ở thực vật trong điều kiện có nhiều ánh sáng nhưng ít CO
2
. Trong quá trình này, đường RuBP bị oxy hóa bởi enzyme rubisco - thay vì nhận phân tử cacbonic như trong chu trình Calvin của quá trình quang hợp. Hô hấp sáng được đánh giá là tác nhân làm giảm đáng kể hiệu suất quang hợp của các thực vật C3, cho dù một số nghiên cứu cho thấy quá trình hô hấp sáng có một số vai trò tích cực đối với thực vật.

Ở các thực vật C4 và thực vật CAM, chức năng oxy hóa của Rubisco bị ngăn chặn và vì vậy hô hấp sáng bị triệt tiêu, đảm bảo được hiệu suất quang hợp cao của chúng trong các điều kiện khô nóng.

Hô hấp sáng xảy ra khi enzyme Rubisco thực thi chức năng oxy hóa của nó, điều này chỉ làm được khi nồng độ cacbonic bị sụt giảm mạnh và trở nên rất thấp so với ôxi - ví dụ như khi hạn hán buộc lỗ khí phải đóng chặt để chống mất nước. Đối với các thực vật C3, hô hấp sáng tăng cao khi nhiệt độ môi trường tăng.

Trong môi trường không khí bình thường (21% ôxi), tỉ lệ của hô hấp sáng là chừng 17% của tổng năng suất quang hợp. Tuy nhiên do một cacbonic sản sinh cần đến 2 ôxi tham gia, tỉ lệ này dôi lên 34%, tương ứng với 3 cacbonic: 1 ôxi.[1]

Rubisco là một enzyme có hai chức năng. Khi nồng độ cacbonic trong tế bào ở mức rất cao so với ôxi, nó sẽ xúc tác cho RiDP phản ứng với cacbonic và chu trình Calvin xảy ra bình thường. Tuy nhiên khi nồng độ ôxi trở nên rất cao so với cacbonic thì hô hấp sáng xảy ra: rubisco xúc tác quá trình oxy hóa RiDP để RiDP bị cắt thành một phân tử axit phosphor glixeric (APG) và axit glicolic (AG). APG sẽ quay trở lại chu trình Calvin và được chuyển trở lại thành RiDP. Tuy nhiên AG thì rất khó được "tái chế" như vậy, vì thế nó ri lục lạp mà tiến vào peroxixom và ti thể, lúc đó nó sẽ biến đổi do trải qua nhiều phản ứng và cuối cùng các phân tử cacbon của nó mới về được chu trình Calvin.

Miêu tả chi tiết

 

Hoạt tính oxigenase của RubisCO

Như đã nói, quá trình hô hấp sáng được tiến hành nhờ hoạt tính ôxigenase của enzyme RuBisCO. Cụ thể Rubisco sẽ xúc tác phản ứng oxy hóa RuBP như sau:

RuBP + O
2
→ Phosphorglycolat + 3-phosphorglycerat + 2H+

Phosphorglycolat (PPG) sau đó sẽ được cơ thể tái sử dụng bởi một loạt các phản ứng xảy ra trong thể peroxi và ti thể, nơi nó được biến đổi thành glycine, serine và sau đó là phosphorglycerat (PGA). Glycerat lại "chui" trở vào lục lạp và tái tham gia chu trình Calvin. Việc chuyển đổi một PGC thành PPG tiêu tốn một ATP trong lục lạp, và đối với 2 phân tử O
2
tiêu tốn trong hô hấp sáng thì một phân tử cacbonic sẽ được sản sinh. Toàn bộ quá trình chuyển hóa PPG trong hô hấp sáng được gọi là chu trình C2 glycolat hay chu trình oxy hóa cacbon quang hợp (viết tắt là chu trình PCO).[1]

Tổng cộng trong chu trình này một nguyên tử cacbon sẽ bị thất thoát[2] dưới dạng CO
2
. Nitơ trong serine sẽ bị chuyển thành ammoniac, nhưng nó không bị hao hụt mà nhanh chóng được chuyển về lục lạp trong chu trình glutamat synthase.[1]

 

Chu trình PCO.

Xét về khía cạnh hiệu suất quang hợp thuần túy, hô hấp sáng là một quá trình hoàn toàn lãng phí vì việc sản sinh G3P diễn ra với năng suất thấp trong khi năng lượng tiêu tốn lại nhiều hơn (5ATP và 3NADH) so với việc cố định cacbonic trong chu trình Calvin (3ATP và 2NADH). Đó là chưa kể, so với chu trình Calvin, hô hấp sáng còn làm mất đi một nguyên tử cacbon.[2] Và trong khi hô hấp sáng cuối cùng cũng sản sinh ra G3P - nguồn năng lượng và nguyên liệu chủ chốt của thực vật - nó cũng sinh ra một sản phẩm phụ là ammoniac - đây là một chất độc mà nội việc khử nó cũng tiêu tốn khá nhiều năng lượng và nguyên vật liệu. Do hô hấp sáng không hề sản sinh ra ATP cũng như làm hao hụt đi cacbon và nitơ (dưới dạng ammoniac), nó sẽ làm suy giảm hiệu suất quang hợp cũng như tốc độ sinh trưởng của cây. Trên thực tế, hô hấp sáng có thể làm sụt giảm đến 25% năng suất quang hợp của các thực vật C3.[3]

Có giả thuyết cho rằng hô hấp sáng được cho là một "di vật" còn sót lại trong quá trình tiến hóa và hiện nay nó không còn tác dụng gì nữa. Trên thực tế, bầu khí quyền Trái Đất thời cổ xưa - thời điểm RuBisCO hình thành trong bộ máy quang hợp - hàm chứa rất ít ôxi và hàm lượng cacbonic tương đối cao - vì vậy đã có giả thuyết cho rằng chức năng cacboxylase của RuBisCO lúc đó không bị ảnh hưởng mấy bởi nồng độ O
2
và Cacbonic.[2]

Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy, hô hấp sáng không hoàn toàn là "có hại" cho cây. Việc làm giảm hoặc triệt tiêu hô hấp sáng - do biến đổi gien hay do hàm lượng cacbonic tăng lên trong thời gian gần đây - nhiều lúc không giúp cây phát triển tốt được. Ví dụ, trong thí nghiệm như một thực vật thuộc chi Arabidopis, đột biến bất hoạt gien quy định hô hấp sáng của loài này sẽ gây ra những ảnh hưởng tai hại cho nó trong một số điều kiện môi trường nhất định. Những bất lợi của việc hô hấp sáng cũng chưa cho thấy ảnh hưởng nghiêm trọng nào đến "đời sống" của các thực vật C3. Và các nhà khoa học cũng chưa tìm thấy bằng chứng nào cho thấy sức ép thích nghi của tự nhiên sẽ/đã tạo ra một loại Rubisco mới ít gắn kết với ôxi hơn hiện tại.[2]

Mặc dù chức năng của hô hấp sáng hiện nay còn nhiều tranh cãi, giới khoa học đã chấp nhận rằng hô hấp sáng có một ảnh hưởng rộng đến các quá trình sinh hóa của thực vật, tỉ như chức năng của hệ thống quang hợp II, biến dưỡng cacbon, cố định đạm và hô hấp thông thường. Chu trình hô hấp sáng cung cấp một lượng lớn H
2
O
2
cho các tế bào quang hợp, vì thế đóng góp đáng kể vào quá trình nội cân bằng oxy hóa-khử trong tế bào thông qua tương tác giữa H
2
O
2
nucleotide pyridine. Cũng bằng cách đó mà hô hấp sáng cũng có ảnh hưởng tới nhiều quá trình truyền tín hiệu tế bào, cụ thể như quá trình điều tiết sự phản ứng của tế bào đối với các yếu tố liên quan tới việc sinh trưởng, miễn dịch, thích ứng với môi trường và sự chết tế bào theo lập trình.[4] Đồng thời, các nghiên cứu cũng cho thấy hô hấp sáng là quá trình cần thiết nhằm làm tăng hàm lượng nitrat trong đất.[5]

Gần đây, nhiều bằng chứng khoa học đã củng cố một giả thuyết về chức năng bảo vệ của hô hấp sáng khi thực vật "hứng" phải quá nhiều quang năng trong điều kiện nồng độ cacbonic ở mức thấp. Cụ thể, hô hấp sáng sẽ thủ tiêu toàn bộ lượng NADPH và ATP dư thừa trong pha sáng của quang hợp, nhờ đó không cho chúng thực hiện các phản ứng oxy hóa quang sản sinh ra các gốc tự do làm hại đến thành phần cấu trúc của bào quan và tế bào. Thật vậy, đối với loài Arabidopis kể trên, khi phải "tắm nắng" thì các cá thể đột biến mất khả năng hô hấp sáng tỏ ra dễ tổn thương hơn các cá thể bình thường.[2]

 

Một thực vật C4 điển hình: ngô.

Một bộ phận các loài thực vật đã sử dụng một số cơ chế nhằm làm giảm sự tương tác của RuBisCO với ôxi và qua đó, làm giảm hoặc triệt tiêu hoạt tính ôxigenase của enzyme này. Nguyên lý chung của các cơ chế này là làm nồng độ CO
2
tăng cao đến mức Rubisco gần như không thể thực hiện chức năng oxy hóa RuBP như trong hô hấp sáng nữa.

Thực vật C4 "bắt" và cố định cacbonic trong các tế bào thịt lá (bằng cách sử dụng một enzyme mang tên là phosphorenolpyruvat cacboxylase, viết tắt PEP cacboxylase) bằng cách gắn CO
2
vào một axít hữu cơ để hình thành oxaloacetat. Oxaloacetat sau đó sẽ được chuyển đổi thành malic và được đưa vào trong các tế bào vòng bao bó mạch, nơi nồng độ ôxi thấp và hô hấp sáng khó xảy ra. Tại đây, malic sẽ giải phóng CO
2
để chúng tham gia vào chu trình Calvin mà không bị hô hấp sáng cản trở. Khả năng tránh được hô hấp sáng khiến các thực vật C4 chịu hạn và chịu nắng tốt hơn nhiều so với các thực vật C3: trong điều khiện khô nắng thì lỗ khí sẽ phải đóng chặt khiến cây không thể hấp thu thêm CO
2
để tăng nồng độ cacbonic. Các loài thực vật C4 phần nhiều là các cây sinh trưởng ở vùng cận nhiệt và nhiệt đới, trong đó có những loài cây nông nghiệp quan trọng như mía, ngô và lúa miến.[6][7]

Thực vật CAM - tỉ như các thực vật mọng nước hay các loài thuộc họ Xương rồng - cũng sử dụng enzyme PEP cacboxylase để cố định cacbonic nhưng theo một cơ chế khác với thực vật C4. Cụ thể là, việc cố định CO
2
diễn ra trong mọi tế bào nhưng chỉ diễn ra vào ban đêm. Còn vào ban ngày, cacbonic sẽ được phóng thích khỏi "kho" và tham gia vào chu trình Calvin. Việc này giúp cho lỗ khí của các thực vật CAM chỉ cần phải mở vào ban đêm - thời điểm ít nắng và ít bị mất nước - để "đón" CO
2
- một ưu thế tối quan trọng cho việc tồn tại ở những nơi cực kì khô nóng như sa mạc.[7]

Áp chế hô hấp sáng cũng có cái giá của nó. Chu trình cố định cacbonic không phải là cỗ máy hoạt động không công: việc cố định mỗi phân tử CO
2
nhờ PEP cacboxylase tiêu tốn mất chừng 2 ATP của thực vật.[8] Đối với thực vật CAM, năng suất hấp thu cacbonic của nó thấp thảm hại so với thực vật C3 và C4 và tốc độ sinh trưởng của chúng thậm chí có thể sụt giảm trong điều kiện độ ẩm cao[9], nguyên do là trong điều kiện này, bản chất của cơ chế CAM khiến tế bào hấp thu quá nhiều nước và vỡ ra, gây thương tổn cho cây[10]. Trên thực tế, khi cùng đặt trong môi trường không quá nắng nóng và đủ ẩm, năng suất quang hợp của thực vật C3 có thể ngang bằng và thậm chí vượt trội hơn. Bản thân hoạt động của chu trình PEP cacboxylase cũng sẽ bị tổn hại ở nhiệt độ thấp và vì vậy thời tiết lạnh là điều không hay đối với các loài dùng chu trình này.[11] Tuy nhiên, như đã nói, các thực vật C4 và CAM vốn sinh trưởng ở các khu vực nhiều nắng và nhiệt độ cao, vì vậy cái giá phải trả này cũng không là gì so với lợi ích quá lớn mà chúng thu được. Thật vậy, rất nhiều loài thực vật C4 nằm trong danh sách những loài cỏ dại hung hăng nhất cũng như các cây nông nghiệp năng suất cao nhất.[11] Đối với thực vật CAM, việc quang hợp và tích trữ vật liệu vẫn diễn ra đều đều ở các sa mạc khô cằn, nơi các loài cây khác không thể thực hiện được.[9]

  • Thực vật CAM
  • Thực vật C4
  • Thực vật C3

  1. ^ a b c Hopkins, Hüner, trang 143
  2. ^ a b c d e Hopkins, Hüner, trang 144
  3. ^ Sharkey, Thomas (1988). “Estimating the rate of photorespiration in leaves”. Physiologia Plantarum. 73 (1): 147–152. doi:10.1111/j.1399-3054.1988.tb09205.x.
  4. ^ doi:10.1146/annurev.arplant.043008.091948
    Hoàn thành chú thích này
  5. ^ Rachmilevitch S, Cousins AB, Bloom AJ (2004). “Nitrate assimilation in plant shoots depends on photorespiration”. Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 101 (31): 11506–10. doi:10.1073/pnas.0404388101. PMC 509230. PMID 15272076.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ Hopkins, Hüner, trang 263
  7. ^ a b Levetin, McMahon, trang 62
  8. ^ Hopkins, Hüner, trang 264
  9. ^ a b Hopkins, Hüner, trang 269
  10. ^ E. Londers; J. Ceusters; I. Vervaeke; R. Deroose; M.P. De Proft (2005). “Organic acid analysis and plant water status of two Aechmea cultivars grown under greenhouse conditions: implications on leaf quality”. Scientia Horticulturae. 105: 249–262. doi:10.1093/aob/mcn105. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ a b Hopkins, Hüner, trang 266-267

  • William G. Hopkins (2009). Introduction to Plant Physiology (ấn bản 4). Hoa Kỳ: John Wileys & Sons, Inc. ISBN 978-0-470-24766-2. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthor= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  • Levetin, Estelle (2003). Plant and society. New York: McGraw-Hill. ISBN 0072909498. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthor= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  • Stern, Kingsley (2003). Introductory Plant Biology. New York: McGraw-Hill. ISBN 0072909412.
  • Siedow, James N.; Day, David (2000). “14. Respiration and Photorespiration”. Biochemistry and Molecular Biology of Plants. American Society of Plant Physiologists.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hô_hấp_sáng&oldid=68335726”