Những thông tin chi tiết về quá trình hô hấp sáng sẽ được tìm hiểu kĩ trong chương trình Sinh học lớp 11. Vậy thì hô hấp sáng là gì? Mối quan hệ giữa hô hấp sáng và quang hợp là gì? Show
Các bạn hãy mau chóng lướt ngay xuống bài viết dưới đây để cùng GiaiNgo tìm hiểu ngay nhé! Bạn đang xem: Hô hấp sáng là gì Hô hấp sáng là gì?Ở phần đầu tiên, chúng ta sẽ cùng nhau đi vào tìm hiểu khái niệm về hô hấp sáng là gì nhé! Hô hấp sáng là gì?Hô hấp sáng là quá trình hấp thụ oxi và giải phóng khí CO2 ngoài ánh sáng. Bên cạnh đó, hô hấp sáng còn có tên gọi khác là quang hô hấp. Quá trình này xảy ra đồng thời với quá trình quang hợp. Đặc biệt, hô hấp sáng thường xảy ra ở động vật C3 trong điều kiện cường độ ánh sáng cao và cường độ quang hợp cao. Ngoài ra, quá trình này còn cần CO2 ở lục lạp cạn kiệt và O2 tích lũy nhiều trong lục lạp. Nơi xảy ra hiện tượng hô hấp ánh sáng là ở bào quan. Đầu tiên xảy ra bắt đầu ở lục lạp rồi đến peroxixom và cuối cùng kết thúc tại ty thể. Diễn biến của hô hấp sáng?Diễn biến của hô hấp sáng được biểu diễn tại lục lạp, perixixom và ty thể. Trước hết, diễn biến của hô hấp sáng tại lục lạp được biểu diễn như sau:
Kế tiếp, diễn biến hô hấp ánh sáng tại peroxixom được diễn ra khá phức tạp. Trước tiên, axit glicolic bị oxi hóa bởi O2 và tạo thành axit glioxilic thông qua sự xúc tác của enzim glicolat-oxidase. Bên cạnh đó cũng đồng thời cũng tạo thành H2O2 và H2O2 sẽ bị phân huỷ bởi catalase để tạo thành H2O và O2. Tiếp theo, axit glioxilic sẽ chuyển thành glyxin thông qua phản ứng chuyển vị amin. Sau đó glyxin sẽ được chuyển vào ty thể. Tham khảo thêm: Mục Đích Của Địa Chỉ Mạng Là Gì ? (Còn Gọi Là Địa Chỉ Mạng Con) Cuối cùng, diễn biến hô hấp ánh sáng còn được diễn ra tại ty thể. Glyxin chuyển thành xerin nhờ xúc tác của enzime kép-glycin decacboxylaza và serin hydroxylmetyl transferase. Tiếp đó, serin lại biến đổi thành axit glyoxilic để chuyển sang lục lạp.
Hô hấp sáng có lợi hay có hại?Hô hấp sáng vừa đem lại nhiều mặt lợi nhưng cũng đồng thời để lại nhiều hậu quả. Hậu quả của hô hấp sáng là gì?Hậu quả của hô hấp sáng đã gây ra sự lãng phí sản phẩm của quang hợp. Không chỉ vậy, sự hô hấp ánh sáng đã hình thành được một số axit amin cho cây glixerin và serin. Không chỉ vậy, hô hấp sáng không tạo ra năng lượng và còn làm tiêu tốn quá nhiều sản phẩm của quá trình quang hợp. Bên cạnh đó, quá trình này còn tạo ra một sản phẩm phụ, đó là amoniac. Đây là một chất vô cùng độc hại đối với môi trường. Quá trình hô hấp cũng sẽ làm hao hụt cacbon và nitơ. Vì vậy có thể dẫn tới việc làm giảm hiệu suất quang hợp của cây, khiến lá cây trở nên úa và héo. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng của cây cũng bị giảm đi đáng kể. Vai trò của hô hấp sáng là gì?Vai trò của hô hấp sáng là có thể thủ tiêu toàn bộ lượng ATP và NADPH dư thừa trong pha sáng của quang hợp. Nhờ đó mà không thể thực hiện các phản ứng oxi hóa quang và sản sinh ra các gốc tự do làm hại đến thành phần cấu trúc của tế bào. Không những thế, năng lượng được thải ra ở dạng nhiệt duy trì nhiệt độ thuận lợi cho các hoạt động sống của cơ thể. Năng lượng được tích lũy trong ATP được dùng để vận chuyển vật chất trong cây. Từ đó kích thích sự sinh trưởng, tổng hợp chất hữu cơ, sửa chữa những hư hại của tế bào. Quan hệ giữa hô hấp ánh sáng và quang hợp?Quan hệ giữa hô hấp ánh sáng và quang hợp là trái ngược nhau. Tuy nhiên chúng phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với nhau. Trước hết, sản phẩm của quang hợp sẽ là nguyên liệu của hô hấp và chất oxi hóa trong hô hấp. Xem thêm: Đầu nối BNC là gì | Jack BNC là gì | BNC là gì Không những thế, sản phẩm của hô hấp sáng sẽ là nguyên liệu để tổng hợp nên C6H12O6 và giải phóng oxi trong quang hợp. Đặc biệt, cả hai đều có chung rất nhiều sản phẩm trung gian và nhiều hệ enzyme. Phương trình tổng quát của hô hấp ánh sáng và quang hợp được biểu diễn như sau:
Vì sao nói hô hấp sáng gắn liền với thực vật C3?Nói hô hấp sáng gắn liền với thực vật C3 vì chúng kiệm nước bằng cách giảm độ mở của khí khổng. Chính điều này làm O2 khó thoát ra ngoài và CO2 khó đi từ ngoài vào trong. Hô hấp sáng sử dụng 20% – 50% sản phẩm của quang hợp làm nguyên liệu. Vì vậy nên làm giảm tối đa một nửa năng suất quang hợp. Quá trình hô hấp sáng là bổ sung CO2 còn thiếu ở thực vật. Vì thế, nó chỉ diễn ra ở những loài thực vật có điểm bù CO2 cao như C3. Còn đối với những loài có điểm bù CO2 thấp thì quá trình này sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, hô hấp sáng lại là quá trình tất yếu của hầu hết thực vật bậc thấp và bậc cao. Chức năng quan trọng của nó là cung cấp cho thực vật một số sản phẩm nhất định mà các quá trình khác không sản xuất được, ví dụ như một số axit min. Hô hấp sáng bị triệt tiêu hoặc bị làm giảm trong thực vật C4 và CAMHô hấp sáng bị triệt tiêu hoặc bị làm giảm trong thực vật C4 và CAM vì lý do rất dễ nhận thấy. Thực vật C4 và thực vật CAM luôn có một kho dự trữ khí CO2 là axit malic nên luôn đảm bảo nồng độ khí CO2 cao. Do đó E Rubisco không có hoạt tính oxygenaza nên không có hô hấp sáng. Bên cạnh đó, thực vật CAM sử dụng sản phẩm cuối cùng của quá trình quang hợp được tích lũy dưới dạng tinh bột. Sở dĩ chúng làm vậy để làm nguyên liệu tái tạo chất nhận CO2 của chu trình CAM, làm giảm chất hữu cơ tích lũy trong cây và năng suất thấp. Như vậy, thông qua bài viết trên, chắc hẳn các bạn đã biết hô hấp sáng là gì rồi phải không? Vậy thì các bạn còn chần chừ gì nữa mà không nhanh tay theo dõi GiaiNgo ngay để cập nhật thêm nhiều điều mới lạ hơn nhé! Tham khảo thêm: Phương châm là gì? Phương châm sống có cần thiết với bạn hay không?
do nó tạo ra các sản phẩm cần thiết cho hoạt động khác đặc biệt chất H\(_2\)O\(_2\) (nước oxi già) chất khử mạnh, bảo vệ cây và ánh sáng mạnh ở pha sáng tạo ra quá nhiều sản phẩm, hô hấp sáng sẽ thủ tiêu toàn bộ lượng NADPH và ATP dư thừa trong pha sáng của quang hợp, nhờ đó không cho chúng thực hiện các phản ứng ôxi hóa quang sản sinh ra các gốc tự do làm hại đến thành phần cấu trúc của bào quan và tế bào Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5* thutran3024 rất mong câu trả lời từ bạn. Viết trả lời XEM GIẢI BÀI TẬP SGK SINH 11 - TẠI ĐÂY Hô hấp sáng, quang hô hấp hay hô hấp ánh sáng là một quá trình hô hấp xảy ra ở thực vật trong điều kiện có nhiều ánh sáng nhưng ít CO Ở các thực vật C4 và thực vật CAM, chức năng oxy hóa của Rubisco bị ngăn chặn và vì vậy hô hấp sáng bị triệt tiêu, đảm bảo được hiệu suất quang hợp cao của chúng trong các điều kiện khô nóng.
Hô hấp sáng xảy ra khi enzyme Rubisco thực thi chức năng oxy hóa của nó, điều này chỉ làm được khi nồng độ cacbonic bị sụt giảm mạnh và trở nên rất thấp so với ôxi - ví dụ như khi hạn hán buộc lỗ khí phải đóng chặt để chống mất nước. Đối với các thực vật C3, hô hấp sáng tăng cao khi nhiệt độ môi trường tăng.
Trong môi trường không khí bình thường (21% ôxi), tỉ lệ của hô hấp sáng là chừng 17% của tổng năng suất quang hợp. Tuy nhiên do một cacbonic sản sinh cần đến 2 ôxi tham gia, tỉ lệ này dôi lên 34%, tương ứng với 3 cacbonic: 1 ôxi.[1] Rubisco là một enzyme có hai chức năng. Khi nồng độ cacbonic trong tế bào ở mức rất cao so với ôxi, nó sẽ xúc tác cho RiDP phản ứng với cacbonic và chu trình Calvin xảy ra bình thường. Tuy nhiên khi nồng độ ôxi trở nên rất cao so với cacbonic thì hô hấp sáng xảy ra: rubisco xúc tác quá trình oxy hóa RiDP để RiDP bị cắt thành một phân tử axit phosphor glixeric (APG) và axit glicolic (AG). APG sẽ quay trở lại chu trình Calvin và được chuyển trở lại thành RiDP. Tuy nhiên AG thì rất khó được "tái chế" như vậy, vì thế nó ri lục lạp mà tiến vào peroxixom và ti thể, lúc đó nó sẽ biến đổi do trải qua nhiều phản ứng và cuối cùng các phân tử cacbon của nó mới về được chu trình Calvin.
Như đã nói, quá trình hô hấp sáng được tiến hành nhờ hoạt tính ôxigenase của enzyme RuBisCO. Cụ thể Rubisco sẽ xúc tác phản ứng oxy hóa RuBP như sau: RuBP + O2 → Phosphorglycolat + 3-phosphorglycerat + 2H+ Phosphorglycolat (PPG) sau đó sẽ được cơ thể tái sử dụng bởi một loạt các phản ứng xảy ra trong thể peroxi và ti thể, nơi nó được biến đổi thành glycine, serine và sau đó là phosphorglycerat (PGA). Glycerat lại "chui" trở vào lục lạp và tái tham gia chu trình Calvin. Việc chuyển đổi một PGC thành PPG tiêu tốn một ATP trong lục lạp, và đối với 2 phân tử O Tổng cộng trong chu trình này một nguyên tử cacbon sẽ bị thất thoát[2] dưới dạng CO Chu trình PCO. Xét về khía cạnh hiệu suất quang hợp thuần túy, hô hấp sáng là một quá trình hoàn toàn lãng phí vì việc sản sinh G3P diễn ra với năng suất thấp trong khi năng lượng tiêu tốn lại nhiều hơn (5ATP và 3NADH) so với việc cố định cacbonic trong chu trình Calvin (3ATP và 2NADH). Đó là chưa kể, so với chu trình Calvin, hô hấp sáng còn làm mất đi một nguyên tử cacbon.[2] Và trong khi hô hấp sáng cuối cùng cũng sản sinh ra G3P - nguồn năng lượng và nguyên liệu chủ chốt của thực vật - nó cũng sinh ra một sản phẩm phụ là ammoniac - đây là một chất độc mà nội việc khử nó cũng tiêu tốn khá nhiều năng lượng và nguyên vật liệu. Do hô hấp sáng không hề sản sinh ra ATP cũng như làm hao hụt đi cacbon và nitơ (dưới dạng ammoniac), nó sẽ làm suy giảm hiệu suất quang hợp cũng như tốc độ sinh trưởng của cây. Trên thực tế, hô hấp sáng có thể làm sụt giảm đến 25% năng suất quang hợp của các thực vật C3.[3] Có giả thuyết cho rằng hô hấp sáng được cho là một "di vật" còn sót lại trong quá trình tiến hóa và hiện nay nó không còn tác dụng gì nữa. Trên thực tế, bầu khí quyền Trái Đất thời cổ xưa - thời điểm RuBisCO hình thành trong bộ máy quang hợp - hàm chứa rất ít ôxi và hàm lượng cacbonic tương đối cao - vì vậy đã có giả thuyết cho rằng chức năng cacboxylase của RuBisCO lúc đó không bị ảnh hưởng mấy bởi nồng độ O Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy, hô hấp sáng không hoàn toàn là "có hại" cho cây. Việc làm giảm hoặc triệt tiêu hô hấp sáng - do biến đổi gien hay do hàm lượng cacbonic tăng lên trong thời gian gần đây - nhiều lúc không giúp cây phát triển tốt được. Ví dụ, trong thí nghiệm như một thực vật thuộc chi Arabidopis, đột biến bất hoạt gien quy định hô hấp sáng của loài này sẽ gây ra những ảnh hưởng tai hại cho nó trong một số điều kiện môi trường nhất định. Những bất lợi của việc hô hấp sáng cũng chưa cho thấy ảnh hưởng nghiêm trọng nào đến "đời sống" của các thực vật C3. Và các nhà khoa học cũng chưa tìm thấy bằng chứng nào cho thấy sức ép thích nghi của tự nhiên sẽ/đã tạo ra một loại Rubisco mới ít gắn kết với ôxi hơn hiện tại.[2] Mặc dù chức năng của hô hấp sáng hiện nay còn nhiều tranh cãi, giới khoa học đã chấp nhận rằng hô hấp sáng có một ảnh hưởng rộng đến các quá trình sinh hóa của thực vật, tỉ như chức năng của hệ thống quang hợp II, biến dưỡng cacbon, cố định đạm và hô hấp thông thường. Chu trình hô hấp sáng cung cấp một lượng lớn H Gần đây, nhiều bằng chứng khoa học đã củng cố một giả thuyết về chức năng bảo vệ của hô hấp sáng khi thực vật "hứng" phải quá nhiều quang năng trong điều kiện nồng độ cacbonic ở mức thấp. Cụ thể, hô hấp sáng sẽ thủ tiêu toàn bộ lượng NADPH và ATP dư thừa trong pha sáng của quang hợp, nhờ đó không cho chúng thực hiện các phản ứng oxy hóa quang sản sinh ra các gốc tự do làm hại đến thành phần cấu trúc của bào quan và tế bào. Thật vậy, đối với loài Arabidopis kể trên, khi phải "tắm nắng" thì các cá thể đột biến mất khả năng hô hấp sáng tỏ ra dễ tổn thương hơn các cá thể bình thường.[2] Một thực vật C4 điển hình: ngô. Một bộ phận các loài thực vật đã sử dụng một số cơ chế nhằm làm giảm sự tương tác của RuBisCO với ôxi và qua đó, làm giảm hoặc triệt tiêu hoạt tính ôxigenase của enzyme này. Nguyên lý chung của các cơ chế này là làm nồng độ CO Thực vật C4 "bắt" và cố định cacbonic trong các tế bào thịt lá (bằng cách sử dụng một enzyme mang tên là phosphorenolpyruvat cacboxylase, viết tắt PEP cacboxylase) bằng cách gắn CO Thực vật CAM - tỉ như các thực vật mọng nước hay các loài thuộc họ Xương rồng - cũng sử dụng enzyme PEP cacboxylase để cố định cacbonic nhưng theo một cơ chế khác với thực vật C4. Cụ thể là, việc cố định CO Áp chế hô hấp sáng cũng có cái giá của nó. Chu trình cố định cacbonic không phải là cỗ máy hoạt động không công: việc cố định mỗi phân tử CO
|