Tại sao nói cảnh tượng xưa nay chưa từng có

Đề bài: Trong ‘Chữ người tử tù” nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng được chi tiết đắt giá – cảnh cho chữ. Đánh giá về cảnh tượng này, nhiều người cho rằng đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Vậy, tại sao nói cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù là cảnh tượng xưa nay chưa từng có?

Bài tham khảo

Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng được nhiều tình tiết đắt giá, một trong số đó là cảnh cho chữ của Huấn Cao với viên quản ngục. Theo dõi cảnh cho chữ, nhiều người đã nhận định rằng, đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Nói cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” là bởi những lẽ sau:

Cho chữ vốn là hành động thanh cao của Nho sĩ thời xưa và thường được diễn ra trong phòng khách hoặc một nơi phong thủy hữu tình. Tuy nhiên, cảnh cho chữ của Huấn Cao lại hoàn toàn đi ngược lại với những quy tắc thông thường đó. Cho chữ – hoạt động sáng tạo nghệ thuật lại được diễn ra trong khung cảnh ngục tù với một căn buồng tối tăm, chật hẹp giành cho tù nhân, xung quanh ẩm ướt, hôi hám với mạng nhện, phân chuột, phân gián….Trong khung cảnh đầy tối tăm, ngột ngạt ấy, Huấn Cao đã viết lên những nét chứ “vuông lắm, đẹp lắm” để dành tặng cho viên quản ngục.

Tại sao nói cảnh tượng xưa nay chưa từng có
Tại sao nói cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù là cảnh tượng xưa nay chưa từng có?

Lựa chọn địa điểm khác thường như vậy xuất phát từ tấm lòng, sự thấu hiểu của Huấn Cao, ông không muốn mang đến những phiền phức không đáng có cho viên quản ngục. Lựa chọn nơi ngục tù, lại giữa đêm khuya để tránh tai mắt, những điều rèm pha. Đặc biệt nhất, chính trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, khi cái đẹp được sáng tạo trong không gian của ngục tù hôi hám, dơ bẩn lại làm cho tài năng, thiên lương càng được tỏa rạng. Qua đó thấy được sức mạnh của cái thiện, của thiên lương có thể đẩy lùi bóng tối và cái ác đang ngự trị, bao vây.

Người cho chữ là những nhà Nho, người nghệ sĩ tài hoa nhưng ở đây, Huấn Cao tuy có tài năng hơn người nhưng cảnh cho chữ cũng thật khác lạ. Ông cho chữ trong trạng thái của một kẻ tử tù, khi tay chân bị xiềng xích, cổ đeo gông giam hãm mất tự do. Người tử tù ấy chỉ sáng mai thôi sẽ bị giải vào kinh chịu án chém nhưng vẫn hiện lên với sự đĩnh đạc, bản lĩnh hơn người. Huấn Cao nổi bật với tư thế uy nghi đầy chủ động, viên quản ngục  vốn là người đại diện cho quyền lực nhưng lại khúm núm, run run khi đón nhận chữ của Huấn Cao.

Xem thêm:  Cảm nhận đoạn Trao duyên trích truyện Kiều của Nguyễn Du lớp 10

Trong khung cảnh cho chữ đầy thiêng liêng ấy, trật tự, quan hệ bị đỏn lộn, kẻ từ tù trở thành người ban phát cái đẹp, người bề trên răn dạy, khuyên bảo với quản ngục. Còn viên quản ngục trở nên khúm núm, vái lạy tù nhân.

Qua việc xây dựng tình huống đặc sắc “xưa nay chưa từng có”, nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định sức mạnh của cái đẹp, cái thiện. Trong những hoàn cảnh éo le nhất, bế tắc nhất thì ánh sáng của cái đẹp, của thiên lương trong sáng có thể đẩy lùi được cái ác, bóng tối. Chữ người tử tù đã tôn vinh được cái đẹp, cái thiện cùng nhân cách cao cả thông qua bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng.

Em hãy phân tích và nêu suy nghĩ của bản thân về sự hội ngộ ba nhân vật trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân để thấy được cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, giúp những người vốn là đối địch của nhau trong xã hội lại trở thành những người bạn tâm giao với nhau.

Mở bài vì sao nói cảnh tượng cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có

Nguyễn Tuân là nhà văn của cái đẹp. Văn ông không thiếu những con người, những hoàn cảnh đẹp đến hoàn bích mà cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù là ví dụ điển hình. Có thể nói với tác phẩm Chữ người tử tù cảnh cho chữ chính là trung tâm của mọi giá trị vừa khắc họa chân dung người tử tù hiên ngang, thi vị lại vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn sâu sắc của thiên truyện.

Thân bài tại sao nói cảnh tượng cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có

  1. Tóm tắt hoàn cảnh trước khi cho chữ
  • Người tù Huấn Cao: vốn là người có tâm hồn phóng khoáng, thích tự do và chán ghét những kẻ nhũng nhiễu nhân dân. Ông còn là người nghệ sĩ tài năng yêu thích cái đẹp và luôn giữ gìn thiên lương trong sáng. Huấn Cao cũng có nguyên tắc riêng của mình, ông viết chữ nổi tiếng nhưng chỉ cho những người ông quý, không bao giờ cúi đầu trước uy quyền và đồng tiền.
  • Quản ngục: một người có thiên lương, biết quý trọng người hiền và yêu cái đẹp nhưng lại làm nghề quản ngục. Khao khát được chữ của Huấn Cao treo trong nhà là khao khát lớn đời ông.
  1. Cảnh cho chữ diễn ra trong ngục tối.
  • Trong bối cảnh giữa một người tù và một tên quản ngục, ban đầu Huấn Cao không nhận ra tấm lòng của viên quản ngục nhưng sau đó người tử tù không thể từ chối mong muốn chính đáng của một người biệt nhỡn liên tài.
  • Diễn biến cảnh cho chữ:

+ Thời gian: Tình huống cho chữ diễn ra hết sức tự nhiên trong thời gian giữa đêm nhưng lại là thời gian cuối cùng của một con người tài hoa.

+ Không gian: Cảnh cho chữ thiêng liêng lại được diễn ra trong cảnh u ám của ngục tối. Bối cảnh được khắc họa trên nền đất ẩm thấp, mùi hôi của dán, chuột…

+ Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối cùng của mình cho người khác. Kẻ xin chữ lẻ ra là người có quyền hành hơn nhưng cúi đầu mang ơn.

  • Cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có vì một số lí do:

+ Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang nghiêm hay ít nhất là nơi sạch sẽ, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị.

+ Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự thoải mái về tâm lí, thể xác trong khi Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm sau.

+ Người quản ngục là người có quyền bắt buộc kẻ tử tù nhưng ngược lại kẻ tử tù lại ở vị thế cao hơn có quyền cho hay không cho chữ.

+ Ca ngợi tấm lòng thiên lương của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục

+ Ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi u ám nhất.

+ Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người của Huấn Cao từ đó thể hiện quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.

Kết bài tại sao cảnh cho chữ là cảnh xưa nay chưa từng có

khẳng định lại cảnh cho chữ là cảnh tượng đẹp và mang nhiều ý nghĩa đồng thời liên hệ với nhà văn Nguyễn Tuân trong lối viết truyện đặc biệt.

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông cùng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xả hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị tri đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

Huân Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bà Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tính Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa tùng có?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyền Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.