Tại sao phải học tập suốt đời

Tại sao phải học tập suốt đời


Tại sao phải học tập suốt đời

Tại sao phải học tập suốt đời

Tại sao phải học tập suốt đời

Tại sao phải học tập suốt đời


1. Thế nào là một xã hội học tập? Xã hội học tập là một xã hội, trong đó, mọi người dân có nhu cầu học tập đều được đáp ứng và đều có nghĩa vụ học tập. Xã hội tạo cơ hội và điều kiện để công dân nào cũng được học tập. Trong xã hội học tập, ai cũng được học hành, học thường xuyên, học suốt đời, trong đó ý thức tự học, học một cách tự giác là yếu tố quyết định nhất.Những thiết chế giáo dục trong nền giáo dục quốc dân được xây dựng thành 2 hệ thống: Hệ thống giáo dục ban đầu gồm các trường lớp chính quy của các cấp học, bậc học từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học dành cho thế hệ trẻ và hệ thống giáo dục tiếp tục gồm những cơ sở giáo dục chính quy và phi chính quy dành cho người lớn – những người lớn đã hoặc chưa qua giai đoạn học tập trong hệ thống giáo dục ban đầu.

Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời


2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng xã hội học tập của Chính phủ như thế nào?

Một là: Mọi công dân đều phải học tập suốt đời để trở thành người lao động có nghề, có năng suất lao động cao để cải thiện cuộc sống bản thân, làm giàu cho gia đình và cho cộng đồng, đóng góp xây dựng xã hội ấm no, hạnh phúc.

Hai là: Mọi công dân, mọi gia đình, dòng họ, mọi cộng đồng dân cư, mọi lực lượng xã hội… đều có trách nghiệm tạo cơ hội và điều kiện để ai cũng được học hành, ai cũng thực hiện được nhiệm vụ học tập suốt đời, bảo đảm mọi người đều bình đẳng xã hội và được công bằng xã hội về giáo dục.

Ba là: Phải xây dựng một hệ thống giáo dục để phục vụ việc học tập suốt đời của người dân, trong đó có sự gắn kết, liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy, giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, giữa giáo dục thế hệ trẻ với giáo dục người lớn.

3. Giáo dục người lớn là gì?

Trên thực tế, người ta phân biệtgiáo dục người lớn chính quyvớigiáo dục người lớn không chính quy. Giáo dục người lớn chính quy là việc tổ chức học tập theo một chương trình cụ thể, có kế hoạch tổ chức và có người hướng dẫn. Người học xong khóa học được công nhận qua chứng chỉ, văn bằng hoặc giấy chứng nhận trình độ nghề nghiệp nhất định.

Giáo dục người lớn không chính quylà quá trình tổ chức học tập cho người lớn để đáp ứng nhu cầu mà đời sống và xã hội đang đòi hỏi. Việc học tập của người lớn không định hướng văn bằng, chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận. Trong nhiều trường hợp, người học được hướng dẫn cách học, sau đấy họ tự học hết chương trình mà họ quan tâm. Khi đã có năng lực tự học, nhiều người lớn học tập một cách tự phát hoặc ngẫu nhiên. Đứng trước những tri thức mới, nếu thấy hay hoặc thấy cần, nhiều người lớn tiến hành học tập đúng với nghĩacần gì học nấy.

4. Vì sao cần tổ chức học tập cho người cao tuổi?

Điều 123, Luật Lao động của nước ta quy định: người cao tuổi là người đã qua thời kỳ lao động nghĩa vụ, nam trên 60 và nữ trên 55 tuổi.

Khi tuổi thọ trung bình của dân tộc tăng lên thì nhiều người cao tuổi về hưu còn đang nhiều tiềm năng hoạt động. Hiện nay, ở nước ta, nhiều người trong độ tuổi 60 – 75 còn khá sung sức trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo thế hệ trẻ, tổ chức sản xuất nghề truyền thống, tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và nhất là các công việc mang tính nhân đạo, từ thiện.

Do người cao tuổi còn có nhiều tiềm năng hoạt động nên việc tổ chức học tập thường xuyên cho họ là rất cần thiết. Họ có nhiều thời gian rảnh rỗi so với khi còn tham gia lao động nên việc tiếp cận với những hình thức học tập không chính quy là khá thuận lợi.

5. Nội dung học tập của người cao tuổi gồm những vấn đề cơ bản nào?

- Nâng cao trình độ sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữđể người cao tuổi mở rộng phạm vi giao tiếp xã hội, cập nhật thông tin, đáp ứng nhu cầu tự học và giải trí trên các mạng.

- Tổ chức các lớp học theo chương trìnhchuyển giao công nghệ, khoa học kỹ thuật sản xuất để nâng cao năng suất vàtăng thu nhập, giúp một số người cao tuổi có việc làm thêm để cải thiện đời sống.

- Mở các lớp huấn luyện về bảo vệ sức khỏe, tập luyện dưỡng sinh, những kiến thức cơ bản về sử dụng thực phẩm chức năng, thuốc chữa bệnh, cách phòng chống bệnh tật…

- Mở các khóa đào tạo đại học cho người cao tuổi (không định hướng văn bằng, chứng chỉ), chủ yếu là nâng cao học vấn, tiếp cận những vấn đề khoa học và công nghệ hiện đại.

Học tập là phương pháp rèn luyện sức khỏe tinh thần có ý nghĩa lớn lao đối với việc giúp người cao tuổi sống vui, sống khỏe và sống có ích trong xã hội hiện đại.

6. Ngườisắpvề hưu cần học tập những gì?

Nhiều nước trên thế giới có kinh nghiệm tổ chức những chương trình học tập cho những người sắp về hưu, gọi là chương trìnhgiáo dục hưu trí. Đó là chương trình giúp người sắp nghỉ hưu học tập để có được những kiến thức và kĩ năng cần thiết nhằm giúp họ đối phó được những thay đổi của cuộc sống sau khi họ rời khỏi công việc.

Chương trình giáo dục hưu trí giúp người sắp về hưu những hiểu biết cần thiết và những kỹ năng sống trong điều kiện sống tại gia đình. Họ cần học tập về những vấn đề về tâm lý – xã hội trong cộng đồng dân cư, về dưỡng sinh và bảo vệ sức khỏe, về việc làm thêm để tăng thu nhập hoặc có thêm những kỹ năng như chụp ảnh, làm hoa giấy, hoa lụa, làm thơ, chơi đàn, khiêu vũ, làm bánh trái, chơi cây cảnh, cá cảnh, chăm sóc thú cưng… Những điều cần thiết ấy giúp người về hưu hòa đồng nhanh với cuộc sống tại cộng đồng dân cư – tại đây, trong quan hệ hàng xóm, láng giềng, tổ dân phố…, con người bình đẳng với nhau, không còn chức sắc, không quyền uy, giữa họ chỉ là những quan hệ tình cảm, yêu thương, quý trọng lẫn nhau, chia sẻ với nhau những vui buồn của cộng đồng và được tự do hoạt động theo sở thích.

7. Thế nào là xóa mù chữ cơ bản?

Mù chữ cơ bảnlà tình trạng không biết đọc, biết viết, không biết 4 phép tínhthông thườnghoặc không có trình độ đọc và viếtdùngvào công việc hằng ngày. Khi xã hội phát triển, trình độ khoa học và công nghệ của người dân đã được nâng cao, tại nhiều quốc gia, người ta xếp những người không kiếm được việc làm, không biết sử dụng máy tính bỏ túi đơn giản vào loại mù chữ cơ bản, bởi những người này không hòa nhập đượcvớixã hội hiện đại, không đóng góp được cho sự phát triển kinh tế xã hội.

Quá trình xóa mù chữ cơ bản là quá trình học tập thường xuyên. Con người nhất thiết phải được xóa mù chữ cơ bản. Trên thực tế, rất nhiều người mù chữ trở lại (tái mù chữ), bởisau khi được qua lớp xóa mù chữ, họ không áp dụng trình độ đã có vào công việc. Phần đông những người mù chữthườnglà những người nghèo khó,họ không đủ kiến thức để tự sản xuất và nâng cao năng suất lao động, không có cơ hội xin được việc làm và tham gia các công việc của xã hội, những người sống tại những vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh, không có cơ hội tiếp cận với giáo dục, những người khuyết tật v.v…. Họphải đi kiếm ăn hằng ngày mà nhiều khi không đủ nuôi thânchứ chưa nói đếnnuôi gia đình.Việc tổ chức các lớp xóa mù chữ luôn phải gắn liền sau đó những lớp học sau xóa mù chữ, những lớp bổ túc tiểu học hoặc những lớp dạy nghề ngắn hạn. Yếu tố cơ bản để con người không rơi vào tình trạng tái mù chữ là họ được học nghề mà thông qua công việc của nghề, họ phải dùng đến chữ viết và tính toán.

8. Thế nào là mù chức năng?

Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại đã luôn nâng caovà đổi mới liên tụctrình độ trang thiết bị sản xuất, đổi mới kỹ thuật và công nghệ chế tạo sản phẩm cũng như trong công việc hành chính, sự nghiệp, giảng dạy, nghiên cứu khoa học… và phương pháp quản lý nhà máy, doanh nghiệp, các cơ quan hành chính, trường học v.v…

Trong lao động, khi các kỹ năng hiện có không còn đáp ứng được những nhiệm vụ mới, con người rơi vào trạng thái mù chữ hành dụng hay còn gọi là bị mù chức năng, thiếu hụt những kỹ năng tiến hành các hoạt động.

Người lao động, từ những nông dân đến những công nhân kỹ thuật, những cán bộ công chức trong hệ thống hành chính – sự nghiệp, những giáo viên và cán bộ giảng dạy, những nhà quản lý kinh tế và quản lý xã hội v.v… đều có thể bị mù chức năng. Do vậy, các khóa bồi dưỡng, tập huấn, chuyển giao tri thức khoa học … để giúp người lao động tránh mù chức năng… cần được tổ chức thường xuyên. Không một ai trong xã hội có thể khẳng định mình không mù chức năng.

Học tập suốt đời làđiều kiện đểcon người khắc phục tình trạng mù chức năng. Tinh thần tự học là cần thiết và có ý nghĩa quyết định đối với việc trau dồi những chức năng cần thiết theo phương châm “Cần gì học nấy” để hành nghề có năng suất cao, đạt chất lượng cao.

9.Công dân học tậplà gì?

Công dân học tậplà thành viên của xã hội học tập. Không có công dân học tập thì không thể có xã hội học tập.Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Vì thế, khi chúng ta vận động nhân dân xây dựng cả nước thành một xã hội học tập, việc quan trọng,nhất thiết phải làm là phải giúp người dân học tập suốt đời để mỗi người trở thành công dân học tập.

Mô hình xã hội học tập của các quốc gia trên thế giới không giống nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện phát triển của mỗi nước. Do vậy, mô hình công dân học tập của quốc gia này sẽ không cùng những tiêu chí so với công dân của quốc gia khác. Tuy các tiêu chí là khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một yêu cầu: công dân học tập phải là người học tập suốt đời để trở thành những lao động đóng góp vào sự cường thịnh quốc gia và tham gia tích cực vào việc bảo vệ hòa bình, an ninh và tiến bộ của nhân loại.

Xem thêm: Vì Sao Quân Ta Chống Tống Thắng Lợi ? Ý Nghĩa Lịch Sử Của Chiến Thắng Này?

Ở Việt Nam, trước năm 2015, phong trào xây dựng xã hội học tập lấy gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học và cộng đồng khuyến học làm động lực thúc đẩy việc học tập suốt đời trong nhân dân. Tới khi Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 89/QĐ-TTg thì các tiêu chí về hiếu học và khuyến học được thay bằng các tiêu chí học tập. Phong trào xây dựng các mô hình hiếu học và khuyến học nói trên được thay thế bằng phong trào xây dựng gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng đồng (thôn bản, xóm ấp, tổ dân phố) học tập, đơn vị học tập và cộng đồng cấp xã học tập. Tất nhiên, gia đình học tập được coi như tế bào của xã hội học tập. Nếu không xây dựng được gia đình học tập thì không thể có dòng họ học tập, thôn bản học tập, tổ dân phố học tập và xã/phường/thị trấn học tập. Đơn vị để đánh giá công nhận dòng họ học tập, cộng đồng học tập… là gia đình học tập. Song, một vấn đề đặt ra là, trong gia đình nhiều thế hệ hoặc gia đình hạt nhân, thậm chí là gia đình độc thân, muốn đạt được tiêu chí học tập thì từng thành viên của gia đình là những cá nhân trong gia đình ấy phải là con người học tập. Đó là những công dân của xã hội học tập. Từ lý do đó, mô hình công dân học tập được đặt ra như điều kiện tất yếu của gia đình học tập.

10. Những giá trị cơ bản, cốt lõi của công dân học tập.

Có một câu hỏi được đặt ra:Những giá trị nào (hay những tiêu chí nào) cần phải có ở từng cá nhân để họ được coi là công dân học tập?Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào những tiêu chí đánh giá công dân học tập. Vì vậy, để chuẩn bị cho việc triển khai đề tài “mô hình công dân học tập ở Việt Nam” chúng tôi xin đề xuất một số giá trị cốt lõi của công dân học tập ở nước ta từ nay đến năm 2020 như sau:

Có tinh tinh thần hiếu học, năng lực tự học và có nghề.Có kế hoạch học tập và thực hiện đầy đủ kế hoạch đó tại các cơ sở học tập không chính quy trong cộng đồng.Biết sử dụng máy tính để khai thác được những tri thức trên các mạng thông tin.Nếu là công chức, viên chức trong biên chế nhà nước phải học ngoại ngữ theo quy định của Bộ Nội vụ.Có năng suất lao động cao trên cơ sở áp dụng sáng tạo những kinh nghiệm hay, những tri thức và kỹ năng do học tập mà có vào công việc hằng ngày.Có nhiều đóng góp cho xã hội.Gia đình không ở mức nghèo theo chuẩn nghèo mà nhà nước ban hành.

11. Thế nào là một gia đình học tập?

Nếu coi gia đình là tế bào của xã hội thìgia đình học tập là tế bào của xã hội học tập, nói cách khác, gia đình học tập là cấu trúc cơ sở của xã hội học tập. Việc chuyển mô hình gia đình hiếu học sang gia đình học tập là phù hợp với logic phát triển bởi muốn có được xã hội học tập thì việc học tập phải được đảm bảo từ mỗi gia đình.

Tính hợp lý của việc xây dựng mô hình học tập có những cơ sở tư tưởng của nó:

Một là, từ lâu, vấn đề học tập trong mỗi gia đình đã là một ý tưởng chỉ đạo của Đảng. Cuối thập kỷ 40 của thế kỷ trước, khi yêu cầu Thanh Hóa phải trở thành một tỉnh kiểu mẫu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến việc xây dựngGia đình học hiệu, tức là phải tổ chức việc học tập từ mỗi gia đình để có được một phong trào học tập trong từng nhà, từng cộng đồng, từng địa phương và trong cả xã hội.

Hai là, cách đây vài thập kỷ, sự phát triển mạnh mẽ các công nghệ dạy và học trong điều kiện mở rộng nền kinh tế tri thức, nhiều nhà khoa học đã nói đến xu thế “Giáo dục tại gia”, đưa giáo dục về từng gia đình và chủ trương thúc đẩy giáo dục trong mỗi nhà.

Ba là, trước xu thế xây dựng xã hội học tập trên thế giới, Nhà nước đã có quyết định 89/QĐ-TTg, yêu cầu đẩy mạnh việc học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và cộng đồng, đơn vị.Yếu tố cơ bản là phải có mô hình gia đình học tập. Thiếu mô hình này sẽ không thể có mô hình dòng họ học tập, cộng đồng học tập.

12. Những tiêu chí đánh giá công nhận gia đình học tập.

Trong giai đoạn 2016 – 2020, tiêu chí đánh giá công nhận gia đình học tập gồm:

Tiêu chí 1:Việc học tập của con em trong gia đình:

- Trẻ em phải được phổ cập giáo dục đúng độ tuổi theo quy định của Nhà nước. Nếu là học sinh chuyên nghiệp hoặc sinh viên thì phải học tập tốt. Con em trong gia đình phải đạt kết quả học tập từ trung bình trở lên.

- Con em trong gia đình có hạnh kiểm tốt, không có hành vi vi phạm pháp luật, không tham gia vào các vụ tiêu cực trong xã hội.

Tiêu chí 2:Việc học tập của người lớn:

Mọi người lớn trong gia đình (từ 19 đến 60 tuổi) trừ những người không có khả năng học tập, đều phải đạt chuẩn từ bậc 1 trở lên (tương đương lớp 3). Mọi người trong gia đình đều có ít nhất một hình thức học tập. Nếu là cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ quân đội phải học tập theo quy định của Nhà nước.

Tiêu chí 3:Điều kiện học tập trong gia đình:

- Gia đình có hình thức giúp đỡ, động viên, khuyến khích kịp thời những thành viên của mình trong học tập.

- Gia đình có ít nhất 01phương tiện học tập cho người lớn như tủ sách, điện thoại, TV, máy tính …

Tiêu chí 4:Tác động, hiệuquảcủa học tập của gia đình:

Gia đình tham gia các cuộc vận động xã hội như xây dựng dời sống văn hóa khu dân cư, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh.

Tiêu chí (3) và (4) là điều kiện cần, tiêu chí (1) và (2) là điều kiện đủ đối với việc công nhận một gia đình đạt danh hiệu Gia đình học tập.

13. Thế nào là một dòng họ học tập?

Dòng họ ở đây được hiểu là mộtchihay mộtnhánhcủa một dòng họ - một cộng đồng huyết thống. Cũng có trường hợp, một số gia đình mang cùng một họ, nhưng khác chi họ,khácnhánh họ, sống trên cùng một địa bàn xã/phường/thị trấn, tập hợp nhau lại và đăng kí là một “dòng họ” để tham gia thi đua đạt danh hiệu “Dòng họ học tập”. Trong trường hợp này, Hội Khuyến học địa phương vẫn chấp nhận đây là một cộng đồng được tổ chức như một chi hoặc một nhánh của dòng họ.

Điều kiện tiên quyết để công nhận một “dòng họ học tập” là phải có 50% gia đình trong dòng họ được công nhận là gia đình học tập.

Điều kiện cần để dòng họ được công nhận đạt danh hiệu “Dòng họ học tập” là dòng họ có Quỹ khuyến học, khuyến tài để động viên, khuyến khích mọi người trong dòng họ học tập thường xuyên. Dòng họ phải giúp các gia đình nghèo thuộc dòng họ có điều kiện tham gia học tập, không để con em trong dòng họ lưu ban, bỏ học hoặc học kém. Kinh tế của dòng họ phát triển bền vững, tỷ lệ các hộ nghèo ngày càng giảm.

14. Thế nào là một cộng đồng học tập?

Khái niệm “cộng đồng” ở đây dùng để chỉ một thôn, bản, tổ dân phố và tương đương – một cộng đồng dân cư nằm trên một địa bàn xã, phường, thị trấn.

Trên thực tế, tiêu chí như một điều kiện đủ để một cộng đồng thôn,xóm, ấp,bản,tổ dân phố được công nhậnđạt danh hiệucộng đồng học tậplà số gia đình học tập phải chiếm ít nhất là 50% tổng số gia đình có trên địa bàn này. Tuy nhiên, điều kiện nhất thiết phải có là chi bộ Đảng và lãnh đạo thôn, bản, ấp, tổ dân phố có sự chỉ đạo cụ thể để cộng đồng phấn đấu đạt danh hiệu, chi hội khuyến học có những hình thức hỗ trợ, khuyến khích, giúp đỡ mọi người trong cộng đồng học tập thường xuyênvà thôn, bản, xóm, ấp, tổ dân phố có Quỹ khuyến học, khuyến tài, phát huy được hiệu quả tích cực trong cộng đồng.

Mặt khác, trong cộng đồng phải có những phương tiện cho người dân học tập thường xuyên như tủ sách, thư viện, nhà văn hóa, phòng đọc sách báo và hội họp của cộng đồng… để trẻ em và người lớn qua đó tiến hành học tập thường xuyên.

Việc học tập của cư dân trong cộng đồng phải có tác dụng xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. Người dân trong cộng đồng tích cực tham gia các cuộc vận động như xây dựng nông thôn mới, xây dựng khu đô thị văn minh, đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư…

15. Thế nào là một đơn vị học tập ?

Đơn vị học tập là một thuật ngữ dùng để chỉ các cơ quan, trường học, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội hoặc công an, cơ quan y tế, v.v… đạt được những tiêu chí học tập do nhà nước quy định. Cho đến nay, Nhà nước chưa có quy định thế nào là một đơn vị học tập một cách chặt chẽ, nhưng trên thực tế, trong phòng trào thi đua xây dựng các mô hình học tập, nhiều địa phương đã bình chọn một số đơn vị học tập theo các tiêu chí sau:

1. Cán bộ, công chức, viên chức và những lao động làm việc trong đơn vị phải đạt được những qui định về học tập do Nhà nước ban hành.

2. Đơn vị phải có sự chỉ đạo chặt chẽ và bảo đảm điều kiện cho các thành viên của mình học tập thường xuyên và học tập có hiệu quả cao. Ngoài ra, đơn vị phải có những phương tiện học tập để các thành viên sử dụng như tủ sách, thư viện, máy tính nối mạng, câu lạc bộ và có Quỹ Khuyến học.

3. Việc học tập của đơn vị phải có tác động tích cực đến sự phát triển của đơn vị, của xã hội như hoàn thành tốt nghĩa vụ với Nhà nước, trong đơn vị không có những biểu hiện sai trái về kỷ luật lao động, về thực thi pháp luật v.v… Tập thể của đơn vị phải đạt danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, v.v… Mặt khác, các gia đình của các thành viên phải là những gia đình học tập (Theo quy định hiện hành, phải có 60% các thành viên có gia đình đạt danh hiệu gia đình học tập thì đơn vị mới được xét danh hiệu đơn vị học tập).