Thế nào là thách thức của toàn cầu hóa đối với các nước đang phát triển

Toàn cầu hoá, khu vực hóa (TCH, KVH) tạo ra những thời cơ thuận lợi cho sự phát triển của các nước đang phát triển (ĐPT). Một trong những thời cơ thuận lợi đó là các nước ĐPT nếu chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong quá trình TCH, KVH sẽ có sự phân chia thành các nhóm nước với những lợi thế so sánh tương ứng để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển.

1. Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển

Lợi thế so sánh luôn biến đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước. Nước nào có nền kinh tế càng kém phát triển thì lợi thế so sánh càng suy giảm. Đa số các nước ĐPT chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp như lao động rẻ, tài nguyên, thị trường…. Đó là một thách thức lớn đối với các nước ĐPT. Nhưng TCH, KVH cũng mang lại cho các nước ĐPT những cơ hội lớn mới, nếu biết vận dụng sáng tạo để thực hiện được mô hình phát triển rút ngắn.

2. Tăng nguồn vốn đầu tư

Kinh tế TCH, KVH biểu hiện nổi bật ở dòng luân chuyển vốn toàn cầu. Điều đó tạo cơ hội cho các nước ĐPT có thể thu hút được nguồn vốn bên ngoài cho phát triển trong nước, nếu nước đó có cơ chế thu hút thích hợp.

3. Nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ

Trong quá trình TCH, KVH các nước ĐPT có điều kiện tiếp cận và thu hút những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng dần trình độ công nghệ sản xuất của các nước ĐPT.

Ví dụ: Nhiều nước đang phát triển trở thành nước công nghiệp mới (Hàn Quốc, Xin-ga-po, Bra-xin…) nhờ sớm hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá.

Thế nào là thách thức của toàn cầu hóa đối với các nước đang phát triển

4. Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực

TCH, KVH đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nước ĐPT phải tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.

5. Mở rộng kinh tế đối ngoại

TCH, KVH làm cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hướng tất yếu và diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. TCH, KVH đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước ĐPT.

Ví dụ : Kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta không ngừng tăng lên. Năm 2007 đạt 111,4 tỉ USD.

6. Cơ sở hạ tầng được tăng cường

Quá trình TCH, KVH đã tạo ra cơ hội để nhiều nước ĐPT phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, về b­ưu chính viễn thông, về điện, nước… ở các nước ĐPT, mức thu nhập tính theo đầu người rất thấp, do đó tích luỹ cũng vô cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh hoạt.

7. Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến

Các nước có nền kinh tế phát triển thường có phương thức, cách thức quản lý nền kinh tế tiên tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế các nước ĐPT học tập những kinh nghiệm quản lý tiên tiến hiện đại của các nước phát triển. Học tập trực tiếp qua các dự án đầu tư, qua các Xí nghiệp, Công ty liên doanh…., qua việc đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế…

1. Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu

Nền kinh tế các nước ĐPT đang cơ cấu lại theo chiến lược kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế. Nhưng trong quá trình đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước ĐPT phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu. Mà xuất khẩu lại phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường thế giới, vào giá cả quốc tế, vào lợi ích của các nước nhập khẩu, vào độ mở cửa thị trường của các nước phát triển… do vậy, mà chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, khó lường trước.

Ví dụ: Hàng hoá các nước đang phát triển vẫn bị ngăn trở khi thâm nhập thị trường các nước lớn bằng một số biện pháp do các nước phát triển đặt ra: áp đặt luật chống bán phá giá (vụ cá tra, cá ba sa của Việt Nam khi nhập vào thị trường Hoa Kì); dựng các hàng rào kĩ thuật khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, về điều kiện sản xuất của các nước sở tại, tiếp tục trợ giá cho các mặt hàng nông sản trong nước….

2. Lợi thế của các nước đang phát triển đang bị yếu dần

Nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do vậy mà những yếu tố được coi là lợi thế của các nước ĐPT như tài nguyên, lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao động thấp… sẽ yếu dần đi, còn ưu thế về kỹ thuật – công nghệ cao, về sản phẩm sở hữu trí tuệ, về vốn lớn… lại đang là ưu thế mạnh của các nước phát triển.

3. Nợ nần của các nước đang phát triển tăng lên

Sau một thời gian tham gia TCH, KVH nợ nần của nhiều nước ĐPT ngày càng thêm chồng chất. Khoản nợ quá lớn (trên 2200 tỷ USD) là gánh nặng đè lên nền kinh tế của các nước ĐPT, nó là lực cản kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này.

4. Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém

Chính sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ năng tổ chức nền kinh tế của các nước ĐPT sẽ làm cho chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước ĐPT với các nước phát triển sẽ ngày càng cách xa hơn.

5. Mở rộng lãnh thổ, tăng thêm dân số.

6. Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển tăng lên

7. Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi

Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động, tài nguyên… nhiều những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang các nước ĐPT; việc các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước ĐPT ngày càng trở nên xấu đi nhanh chóng.

– Chủ động hội nhập từng bước vững chắc

– Biết lợi dụng những yếu tố thuận lợi

– Vừa hợp tác, vừa đấu tranh

– Liên kết để có tiếng nói chung

Giải Bài Tập Địa Lí 11 – Bài 4: Thực hành: Tìm hiểu những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với các nước đang phát triển. giúp HS giải bài tập, các em sẽ có được những kiến thức phổ thông cơ bản, cần thiết về các môi trường địa lí, về hoạt động của con người trên Trái Đất và ở các châu lục:

1. Cơ hội

– Trao đổi hàng hoá trên thị trường thế giới thuận lợi. Mở rộng thị trường tiêu thụ và cạnh tranh bình đẳng trong một môi trường không bị đối xử phân biệt.

Ví dụ : Kể từ ngày gia nhập WTO (năm 2002), Trung Quốc đã khôn khéo khai thác tốt các cơ hội, nhờ vậy chỉ sau 2 năm (2004) đã đạt nhiều thành quả to lớn: tốc độ tăng trưởng GDP rất cao 9,5%, xuất siêu 32,7 tỉ USD, thu hút 60,6 tí USD và năm 2006 ngành công nghiệp ô tô đứng thứ 3 thê giới vởi 7,28 triệu chiếc.

– Thuận lợi trong tiếp nhận và sử dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ.

– Tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hoá của nhân loại.

– Chia sẻ, hợp tác, học tập các kinh nghiệm về bảo vệ môi trường.

– Nhanh chóng đón đầu được công nghệ hiện đại, áp dụng ngay vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội.

Ví dụ : Nhiều nước đang phát triển trở thành nước công nghiệp mới (Hàn Quốc, Xin-ga-po, Bra-xin…) nhờ sớm hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá.

– Có điều kiện chuyển giao những thành tựu mới về khoa học công nghệ; về tổ chức và quản lí, về sản xuất và kinh doanh tới tất cả các nước.

– Thực hiện chủ trương đa phương hoá quốc tế, chủ động khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của các nước khác.

2. Thách thức

– Bị áp lực lớn trong cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm hàng hoá.

Ví dụ: Hàng hoá các nước đang phát triển vẫn bị ngăn trở khi thâm nhập thị trường các nước lớn bằng một số biện pháp do các nước phát triển đặt ra: áp đặt luật chống bán phá giá (vụ cá tra, cá ba sa của Việt Nam khi nhập vào thị trường Hoa Kì); dựng các hàng rào kĩ thuật khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, về điều kiện sản xuất của các nước sở tại, tiếp tục trợ giá cho các mặt hàng nông sản trong nước….

– Cần có vốn, có nguồn nhân lực kĩ thuật cao và làm chủ được các ngành kinh tế mũi nhọn.

– Nguy cơ làm mai một và xói mòn các giá trị văn hoá, và đạo đức truyền thống.

– Nguy cơ cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên và suy thoái môi trường rất lớn. Nguy cơ trở thành “bãi thải công nghệ của các nước phát triển”.

Ví dụ: Nhiều nước châu Phi giàu tài nguyên quý hiếm Ni-giê-ri-a, An-gô-la,…, nhưng mức sống vẫn rất thấp (GDP/người nhỏ hơn 350 USD). Tài nguyên khoáng sản và rừng của hầu hết các nước châu phi bị khai thác kiệt quệ bởi các công ti tư bản nước ngoài…

– Tình trạng phụ thuộc vốn, kĩ thuật công nghệ và vật tư thiết bị vào nước ngoài ngày càng chặt chẽ.

Ví dụ: Tình trạng phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài ngày càng lớn của các nước Mĩ La tinh, biểu hiện ở khoản nợ nước ngoài vượt trên 50% GDP.

“Những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với các nước đang phát triển”

   Toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

   Trước hết là những cơ hội lớn do toàn cầu hóa mang lại. Quá trình toàn cầu hóa ở gắn liền với sự liên kết khu vực, hình thành nhiều tổ chức kinh tế – chính trị- xã hội như Liên minh châu Âu EU, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, WTO…đã thúc đẩy tự do hóa thương mại mở rộng, hàng rào thuế quan giữa các nước bị bãi bỏ hoặc giảm xuống, hàng hóa có điều kiện lưu thông rộng rãi.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới có thể nhanh chóng đón đầu được công nghiệp hiện đại, áp dụng ngay vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội.

Toàn cầu hóa tạo điều kiện chuyển giao những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lí, về sản xuất và kinh doanh tới tất cả các nước. Là cơ hội để các nước thực hiện chủ trương đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của các nước khác.

   Bên cạnh nhiều cơ hội quan trọng là những thách thức mà chúng ta cần nhìn nhận. Khoa học và công nghệ đã có tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế thế giới. Muốn có sức cạnh tranh kinh tế mạnh, phải làm chủ được các ngành kinh tế mũi nhọn như điện tử – tin học, năng lượng nguyên tử, hóa dầu, công nghệ hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học,…

Chênh lệch sâu sắc về trình độ phát triển kinh tế và đời sống giữa các nhóm nước. Xuất hiện nhiều tập đoàn xuyên quốc gia lũng loạn thị trường toàn cầu. Các siêu cường kinh tế tìm cách áp đặt lối sống và nền văn hóa của mình đối với các nước khác.

Toàn cầu hóa mở rộng và du nhập các nền văn hóa khác nhau, con người có nhu cầu hưởng thụ nhiều hơn, mới mẻ hơn. Điều này đã làm cho các giá trị đạo đức của nhận loại được xây dựng hàng chục thế kỉ nay đang có nguy cơ bị xói mòn.

Toàn cầu hóa gây áp lực nặng nề đối với tự nhiên, làm cho môi trường suy thoái trên phạm vi toàn cầu và trong mỗi quốc gia. Trong quá trình đổi mới công nghệ, các nước phát triển đã chuyển các công nghệ lỗi thời, gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển.