Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ

Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài, thơ ca đã hình thành được những hình thức cực kì đa dạng, từ thơ sử thi dài hàng chục vạn câu đến những bài thơ rất ngắn, chỉ có hai, ba, bốn dòng như thơ tứ tuyệt, thơ haiku…

Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ

Khái niệm thơ ca

Thơ ( hay thơ ca, thi ca ) là hình thức sáng tác văn học phản ánh đời sống với những cảm hứng chất chứa, cô đọng, những tâm trạng dạt dào, những tưởng tượng can đảm và mạnh mẽ, trong ngôn từ hàm xúc, giàu hình ảnh, và nhất là có nhịp điệu .

Thơ là dạng thức ban đầu của văn học. Ngoại trừ thần thoại thời nguyên thủy tồn tại chủ yếu dưới các hình thức cúng tế, lễ hội, các hình thức thức văn học ban đầu như sử thi, kịch, thơ trữ tình đều là thơ ca, tức là ngôn ngữ có nhịp điệu. Với nhiều nền văn học, trong đó có văn học Việt Nam, thơ ca ra đời rất lâu rồi văn xuôi mới xuất hiện. Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài, thơ ca đã hình thành được những hình thức cực kì đa dạng, từ thơ sử thi dài hàng chục vạn câu đến những bài thơ rất ngắn, chỉ có hai, ba, bốn dòng như thơ tứ tuyệt, thơ haiku…

Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ

Đặc trưng của thơ

Về nội dung, thơ là là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức. Tính trữ tình là đặc trưng điển hình nổi bật nhất của nội dung thơ. Đối tượng của thơ là hứng thú niềm tin. Nhiệm vụ chính của thơ là gợi lên cho ý thức nhận thấy sức mạnh của đời sống ý thức và toàn bộ những gì lay động, làm xúc động người đọc. Thơ không chú trọng miêu tả sự vật bên ngoài, không kể những vấn đề xảy ra mà nghiêng về biểu lộ những xúc cảm nội tâm, những tình cảm, cảm nhận của con người trước vấn đề, giúp ta hiểu hơn con người chủ thể bên trong. Chẳng hạn bài Tiếng trống trường của Chữ Văn Long :

Có cả cuộc đời rồi bỗng nhớ
Những đoạn đường xa lắc tuổi thơ đi
Bàn chân nhỏ băng qua đồng ruộng
Tiếng trống trường giục giã những mùa thi
Vừa mới đấy đã bao năm cách biệt
Bạn bè ơi, giờ ở những nơi đâu?
Nghe tiếng trống sao chẳng về tụ lại
Trước sân trường ríu rít nắm tay nhau?
Sao chẳng thể một lần như thế nữa
Ngồi chung bàn, chung ghế như xưa
Lại hồi hộp ngó bảng đen phấn trắng
Cho mắt nhìn thắm lại chút ngây thơ
Sao chưa đến tìm nhau bè bạn
Bao năm ròng trọ học thổi cơm chung
Hãy ngồi lại thêm một lần so đũa
Nghe tiếng cười trai gái rộn quanh mâm
Sao không thể cùng về thăm thầy cũ
Ơi cái trống da trâu thay bọc bao lần
Giờ mới biết những hồi trống ấy
Làm tóc thầy từng sợi bạc thêm nhanh…
Có cả cuộc đời rồi sẽ nhớ
Những đoạn đường xa lắc tuổi thơ đi
Và cho đến bao giờ không biết nữa
Tiếng trống trường vẫn giục giã mùa thi.

Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ

Bài thơ là dòng tâm trạng dào dạt, da diết của con người từ hiện tại gửi về thuở học trò hoa mộng. Những hình ảnh ruộng đồng, cái trống, mùa thi, sân trường, lớp học, bảng đen, phấn trắng, mái tóc bạc của thầy, những bữa cơm rộn ràng tiếng cười, … làm sống lại một quãng đời tuổi thơ “ xa lắc ”. Tiếng trống trường đánh động những hoài vọng quá khứ, gợi bao tiếc nhớ, tự vấn về những kỉ niệm, những ân tình mà mình đã gắn bó một thời .
Như thế, thơ là sự biểu lộ tình cảm mãnh liệt. Nó yên cầu nhà thơ phải có sự rung động can đảm và mạnh mẽ từ bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn, buộc tác giả phải sống rất sâu vào quốc tế nội tâm của mình. Thiếu tình cảm chân thành, thâm thúy, nhà thơ không hề làm được thơ, họa chăng chỉ có những câu vần vè, chắp nối. Lê Quý Đôn từng nói : “ Ta cho thơ có ba điều chính : một tình, hai cảnh, ba sự ”. Thiếu đi một tình cảm mãnh liệt thì Hữu Tưởng khó lòng làm được những câu thơ xúc động chân thành cả trẻ nhỏ và người lớn trong bài Gửi lời chào lớp Một :

Lớp Một ơi! Lớp Một!
Đón em vào năm trước
Nay giờ phút chia tay
Gửi lời chào tiến bước!
Chào bảng đen cửa sổ
Chào chỗ ngồi thân quen
Tất cả! Chào ở lại
Đón các bạn nhỏ lên.
Chào cô giáo kính mến
Cô sẽ xa chúng em…
Làm theo lời cô dạy
Cô sẽ luôn ở bên.
Lớp Một ơi! Lớp Một!
Đón em vào năm trước
Nay giờ phút chia tay
Gửi lời chào tiến bước!

Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ

Tình cảm mãnh liệt là tác nhân quan trọng để nhà thơ viết được những câu thơ, bài thơ có sức ám ảnh, lay động lòng người. Nhưng thơ không phải là sự thể hiện tình cảm một cách bản năng, trực tiếp. Tình cảm trong thơ là tình cảm được ý thức, được thăng hoa, và lắng đọng qua xúc cảm thẩm mĩ, gắn liền với khoái cảm của sự ý thức về mình và về đời. Đó phải là tình cảm lớn, tình cảm đẹp, hùng vĩ, thấm nhuần thực chất nhân văn, chính nghĩa. Tình cảm tầm thường không làm nên thơ, thậm chí còn giết chết thơ .
Nói như vậy không có nghĩa là tác phẩm trữ tình không dính dáng gì đến hiện thực khách quan, chỉ đơn thuần thể hiện suy tư, cảm hứng của tâm hồn. Tác phẩm trữ tình cũng tái hiện những hiện tượng kỳ lạ đời sống như trực tiếp miêu tả cảnh sắc vạn vật thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiếu sự kiện tương đối liên tục như Mẹ vắng nhà ngày bão của Đặng Hiển, Đi học của Minh Chính, Trên hồ Ba Bể của Hoàng Trung Thông, … nhưng sự tái hiện này không mang mục tiêu tự thân, mà tạo điều kiện kèm theo để chủ thể thể hiện những cảm hứng, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Ở đây, nguyên tắc chủ quan là nguyên tắc cơ bản trong việc sở hữu hiện thực, là tác nhân cơ bản lao lý những đặc thù cốt yếu của tác phẩm trữ tình. Vì thế, trong tác phẩm khi nào cũng Open hai lớp nội dung : một là nội dung bức tranh hiện thực đời sống và hai là nội dung của những ý nghĩ, cảm hứng, suy tư ẩn đằng sau bức tranh đó ( người ta vẫn thường gọi đó là cảnh và tình, sự và tình ). Chẳng hạn, bài thơ Hành trình của bầy ong của Nguyễn Đức Mậu, bức tranh đời sống hiện lên rất đơn cử, sinh động qua bao cảnh đẹp mê hồn của vạn vật thiên nhiên kì thú, qua sức tìm tòi cần mẫn, không ngừng, không nghỉ trong hành trình dài vô tận của bầy ong – những hành trình dài bền bĩ và không ngừng phát minh sáng tạo. Những ý nghĩ, cảm hứng, suy tư ẩn đằng sau bức tranh hiện thực này đó là : Hành trình nhẫn nại, không ngừng nghỉ của bầy ong tượng trưng cho sức phát minh sáng tạo diệu kì của con người ( nhất là nghệ sĩ ) trước bao nhiêu đắp đổi của thời hạn và sự sống .
Về hình thức, thơ bộc lộ bằng hình tượng, ý tượng với ngôn từ thơ được cấu trúc đặc biệt quan trọng. Cách tổ cách ngôn từ đặc biệt quan trọng ở câu thơ cũng tạo cho nó năng lực trở nên đa nghĩa. Có thể nói, thơ là thẩm mỹ và nghệ thuật của hình tượng – một yếu tính tạo ra sự chất họa trong thơ. Mỗi loại thơ có những loại hình tượng riêng. Nhật, nguyệt, tùng, cúc, mai, lan, trúc, sen … trong thơ cổ ; bờ ao, giếng nước, bến đò, con bống, cái khăn, ngọn đèn, … trong ca dao ; cờ đỏ, máu đào, bàn chân, tay súng, con đường, mặt trời … trong thơ ca cách mạng ; trái tim, đôi môi, làn hương, bờ vai, chim hót, vườn cây, con mắt … trong thơ lãng mạn ; khung trời xanh, chim hòa bình, toàn cầu, tiếng trống trường, sân chơi, lớp học, chiếc khăn quàng đỏ, cánh buồm, góc sân, khoảng chừng trời … trong thơ mần nin thiếu nhi v.v … Các hình tượng trong thơ phát sinh nhờ sức liên tưởng, tưởng tượng, phát minh sáng tạo can đảm và mạnh mẽ của nhà thơ nhằm mục đích làm cho tác phẩm có sức khai mở, khơi gợi sự suy tưởng bay bổng ở người đọc .Tính chất đặc biệt quan trọng của ngôn từ thơ bộc lộ trước hết ở nhịp điệu của nó. Sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích mục tiêu tạo nhịp điệu cho thơ. Cuối mỗi dòng thường là chỗ ngừng. Tùy theo số chữ ( tiếng ) trong dòng thơ mà thơ có nhịp điệu khác nhau, thích hợp với những cung bậc tình cảm khác nhau. Ngôn từ thơ cũng không có tính liên tục và tính nghiên cứu và phân tích như ngôn từ văn xuôi, ngược lại nó có tính nhảy vọt, gián đoạn tạo thành những khoảng chừng lặng giàu ý nghĩa. Chẳng hạn :

Nếu nhắm mắt trong vườn lộng gió
Sẽ được nghe nhiều tiếng chim hay
Tiếng lích rích chim sâu trong lá
Con chìa vôi vừa hót vừa bay.
Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên
Thấy chú bé đi hài bảy dặm
Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền.
Nếu nhắm mắt nghĩ về cha mẹ
Đã nuôi em khôn lớn từng ngày
Tay bồng bế sớm khuya vất vả
Mắt nhắm rồi, lại mở ra ngay.
(Nói với em, Vũ Quần Phương)

Sự kết hợp không gian, văn cảnh, cảm xúc trong ba khổ thơ thoạt nhìn có cảm giác khá lỏng lẻo, không gắn kết chặt chẽ với nhau. Ở khổ một, tác giả đặt trẻ thơ vào trong một thế giới trong veo, thanh bình, đầy âm sắc của thiên nhiên kì diệu. Sang khổ thứ hai, thế giới diệu kì của thiên nhiên đã nhường chỗ cho một không gian cổ tích thần kì của con người. Khổ thơ cuối là hành trình đi ngược vào tâm linh, vào nỗi nhớ để đến với không gian đời thường gần gũi. “Nếu nhắm mắt” là một giả thiết thú vị mà tác giả đặt ra cho nhân vật trữ tình, tạo thành chất kết dính cả ba khổ thơ. Nhắm mắt để có thể tập trung tâm trí, phát huy tối đa trí tưởng tượng, để tâm hồn thật nhẹ nhàng, thật rộng mở và để mình có cơ hội nhìn thật sâu vào chính cõi lòng, để biết thấu cảm, tri ân hơn nữa tình yêu thương, công lao to lớn của cha mẹ, người thân đã dành cho mình.

Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ

Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn – Lý luận văn học

Bài làm

Thơ ca chính là sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ còn cái tài lại là cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc thì mỗi tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả mà nó còn là sự chắt lọc, trau chuốt trên từng vần thơ, câu chữ.

Nhà thơ vỹ đại của văn học Xô Viết Mai-a-cop-ki từng cho rằng “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ”. Câu nói ấy là bàn về trách nhiệm của người làm thơ và đặc điểm của ngôn từ, bởi thơ ca cũng như văn chương nói chung đều bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực và được xây dựng bằng vật liệu ngôn từ. Người nghệ sĩ luôn phải dùng tài nghệ của chính mình để biến ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ văn học, để có thể tạo nên những câu thơ không chỉ đẹp riêng về ngôn ngữ mà còn đẹp về cả ý tứ câu thơ.

Trong văn học, ngôn ngữ luôn là yếu tố đầu tiên, nó giống như màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Để tạo nên một tác phẩm độc đáo cần các nhà thơ cần trải qua quá trình lao động nhọc nhằn, như người đào vàng, tìm ngọc, đãi từ kho quặng chữ thô ráp mơi có thể lấy ra một viên ngọc chữ nghĩa tinh khôi. Nhiều khi khát cháy trên sa mạc ngôn từ vẫn chưa tìm được thứ báu vật thiêng liêng ấy. Bởi thơ không chỉ có nghĩa mà chủ yếu là tình, là hồn, là những khái niệm ai cũng biết nhưng để lý giải, khai thác một cách triệt để là vô cùng khó. Trong thơ có hơi thở, có hồn, có trái tim, có sự chiêm nhiệm, từng trải mà thấm nhuần. Sẽ rất khó để có thể đạt tới sự thấu tỏ tuyệt đối về cảm xúc và ý tứ, về những lung linh của con chữ, về tiết tấu nhịp điệu mang dấu ấn văn hóa, lịch sử, phong tục, thói quen. Trong sự lao động của nhà thơ luôn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật luôn có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của một tác phẩm phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ, sự trau chuốt tỉ mỉ về câu từ của tác giả; viết sao cho hay, viết sao cho đúng mà vẫn giữ được nét đẹp ngôn từ luôn là phương châm sáng tạo của người viết.Trách nhiệm của các văn nghệ sỹ trước thời đại và cuộc sống là phải thấu hiểu con người.

Tài năng của người nghệ sỹ trước hết là cách sử dụng ngôn từ. Mà ngôn ngữ thơ chính là ngôn từ, câu chữ được người nghệ sĩ mã hóa, chắt lọc từ đời sống, tạo nên tinh hoa nghệ thuật đặc sắc. Việc lựa chọn từ ngữ đòi hỏi người nghệ sĩ tốn rất nhiều công sức để tìm cho ra được những từ ngữ có khả năng biểu đạt cao nhất ý muốn diễn tả. Ngôn ngữ văn học phải chính xác và tinh luyện, tạo nên hình tượng trong tác phẩm. Chính vì thế, nó không trừu tượng mà có tính chất cảm tính cụ thể, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc thông qua việc biểu đạt suy nghĩ tính cách nhân vật hay thái độ và quan niệm của tác giả. Ngôn từ không phải chỉ để diễn đạt một hành động, sự việc đang được nói đến, mà còn nói thêm nhiều điều sắp xảy ra. Có khi, ngôn từ là một lá thư, một lời nhắn nhủ, một lời tâm sự của tác giả về đời, về người, về thời đại. Mặt khác, ngôn từ còn thể hiện phong cách hành văn, phong cách nghệ thuật của người viết, hay còn thể hiện khả năng sáng tạo của người cầm bút. Chính vì vậy, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ luôn giữ vai trò quyết định nên vẻ đẹp cho tác phẩm. Với “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu mỗi từ ngữ, chất liệu làm nên hình thức, vỏ bọc bên ngoài luôn được ông trau chuốt, mài giũa; đồng thời tình cảm, tư tưởng về con người, thiên nhiên cũng được ông bộc lộ đầy đủ, chân thực và sâu sắc qua tác phẩm của mình. Trong kiệt tác “Vội vàng”, từng câu, từng chữ đều chở nặng ý vị tuyên ngôn, mang đậm tư tưởng mới mẻ và tràn đầy chất Xuân Diệu. Mở đầu bài thơ, thể ngũ ngôn truyền thống đã làm bật lên cái khát khao sống mãnh liệt, điên cuồng của thi sĩ:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Thật kì lạ, thi vị biết bao! Cái ước muốn, khát khao của Xuân Diệu là những ước muốn hết sức phi lý, ngông cuồng: tước đoạt quyền của tạo hóa, cưỡng lại quy luật tự nhiên. Không phải vì ghét mùa xuân, cũng chẳng bởi ghét “màu nắng” hay “hương gió” mà là nhà thơ muốn “tắt, buộc” tất cả. Đơn giản chỉ vì ông khát khao giữ cho vẻ đẹp mãi mãi lên hương, tỏa sắc giữa cuộc đời, bất tử hóa cái đẹp của vạn vật thiên nhiên. Mong muốn ấy càng trở nên tha thiết hơn bao giờ hết bởi nhà thơ sử dụng liên tiếp hai chữ “đừng” chứa đựng một nguyện vọng sâu sắc. Có lẽ vì quá đỗi say mê, ham sống đến tột cùng, đến vô biên mà thi nhân trở nên tham lam, ích kỷ, muốn giữ lại vẻ đẹp, sự sống của tạo vật cho riêng mình. Thế nên mới có cảm giác âu lo, sợ hãi, nuối tiếc thể hiện trong từng câu chữ. Với cách sử dụng từ có chọn lọc tỉ mỉ, đọc lên câu thơ của Xuân Diệu ta không hề nhìn thấy sự thô kệch của lòng tham mà dường như ta nhận ra được ước muốn táo bạo của tác giả dù nó đi ngược với quy luật đất trời.

       Nhắc tới ngôn ngữ thi ca, phải kể đến Nguyễn Du “Bậc thầy về ngôn từ”, đến với đoạn “Chị em Thúy Kiều”, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của chủ thể trữ tình mà còn thấy được cách sử dụng ngôn từ tài tình của tác giả:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn:

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”

Ví như hai từ “đầy đặn, nở nang” trong câu thơ “Khuôn trăng đầy đặn/ Nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân, hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn phúc hậu như vầng trăng cũng như cả nét ngài uốn cong thanh tú của nàng Vân mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng. Với miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng lại tạo nên sự hoà hợp, êm dịu: “ mây thua, tuyết nhường”. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Còn với Kiều, Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thúy Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc họa chân dung tuyệt mỹ của giai nhân:” Làn thu thủy, nét xuân sơn,hoa ghen,liễu hờn…” Với bút pháp ước lệ ,lí tường hóa,Kiều hiện ra trong mắt người đọc bằng hình ảnh của một thiếu nữ có đôi mắt long lanh,bình lặng; nét mày thanh tú như dáng núi mùa xuân.Thật là một dung nhan sắc sảo mặn mà, vừa có duyên lại vừa có hồn. Nhưng vẻ đẹp ấy lại đẹp đến độ sắc nước hương trời, chim sa cá lặn, nghiêng nước nghiêng thành khiến cho hoa ghen liễu hờn… Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận, cuộc đời nàng sẽ có nhiều khổ đau, trắc trở. Là một nghệ sĩ về ngôn từ, Nguyễn Du không sử dụng thi liệu cổ một cách máy móc, rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn. Nhà thơ đã tạo nên những từ ngữ rất riêng, rất Nguyễn Du nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc, đi vào hàng triệu trái tim.

Với con người, ánh sáng là những gì tốt đẹp nhất, soi rọi tâm hồn con người và thay đổi nó. Còn với Tố Hữu, ánh sáng chính là lí tưởng cách mạng – “ánh sáng” đã giúp ông tìm ra lối đi cho mình:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim.”

Khổ đầu tiên ca ngợi lí tưởng và nói lên tình yêu với lí tưởng cách mạng. Tác giả khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ nhà thơ. “Bừng” – ánh sáng phát ra đột ngột, ánh sáng của ngày hè đầy nồng nàn và rạng rỡ.  Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo, giàu ý nghĩa thẩm mĩ mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đem lại sự sống cho muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lí” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui rất đỗi thiêng liêng và sức xuyên thấu kì diệu, mạnh mẽ của lí tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của người chiến sĩ. Hai động từ mạnh “bừng” và “chói” gây ấn tượng đến thị giác độc giả. Nghe có gì đó đến rất đột ngột, nhưng cũng đến rất phô trương, rất mãnh liệt khiến người ta không thể kháng cự. Như một sức mạnh vô hình đang lao đến, Tố Hữu khiến lí tưởng cách mạng trở nên to lớn, mang tầm vóc vĩ đại, bừng sáng chói chang.

Trong khi đó, Nguyễn Duy lại xem ánh sáng của vầng trăng – tức ánh trăng, là người bạn tri kỉ, nghĩa tình, cũng vừa là một quan tòa phê phán, lên án sự bội bạc của nhân vật trữ tình:

                                      “ Trăng cứ tròn vành vạnh

                                         kể chi người vô tình

                                        ánh trăng im phăng phắc

                                        đủ cho ta giật mình”

 Ánh trăng trước sau vẫn vậy, dân dã, mộc mạc, bình dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn một cách trong sáng vô tư, mặc cho thời gian trôi, không gian biến đổi, mặc cho bạn bè xưa ai đó quay lưng. Nhưng đó là chất thử, chất xúc tác, khơi gợi niềm xúc động, tạo sự sám hối, đánh thức lương tâm ở con người. Cái “giật mình” được diễn tả trong đoạn thơ thể hiện sự bừng tỉnh đáng quý, cần có để làm người, lại vừa là từ rất đắt, cô đọng suốt cả bài thơ. “Giật mình” vì nhận ra trước đây mình đã quá vô tình, “giật mình” vì nhận ra trăng vẫn im lặng và bao dung như thế, “giật mình” vì ăn năn hối hận đã quên nghĩa thủy chung. Giờ đây, con người đã tìm được con đường trở về với chính con người mình trước đây, đã tìm lại được những tháng ngày tình nghĩa đã vô tình quên lãng.

Xem thêm: Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn

Qua bốn bài thơ “Vội vàng”, “Truyện Kiều”, “Từ ấy” và “Ánh trăng”, ta thấy được giá trị ngôn ngữ của bài thơ, đồng thời cảm nhận được sức lay động và rung động mãnh liệt, quảng đại của ngôn từ. “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.”(Mayakovsky) Ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện nhưng cần sáng tạo đẻ có thể tạo dấu ấn riêng. Ngôn ngữ ấy cũng phải hàm súc, căn cứ vào chủ thể trữ tình để miêu tả nhưng cũng không thể khô khan.Công việc sáng tác là một quá trình gian khổ, vất vả nhưng cũng rất đáng quý. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Từ xa xưa, những lời hát trong bài ca lao động của người nguyên thuỷ, những lời cầu nguyện, mong ước điều tốt lành cho mùa màng đến những lời niệm chú có thể coi như hình thức đầu tiên của thơ.

Trải qua thời gian, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và hoàn thiện tựa như những nguồn nước mát trong nảy sinh từ cội nguồn sáng tạo sâu thẳm vô tận. Chính vì vậy, ngôn ngữ thơ ca không phải là vẻ đẹp của đồ trang sức hay trò chơi phù phiếm, mà là vẻ đẹp tỏa ra từ tâm hồn và ánh lên từ cuộc sống, thông qua sự mài dũa và tinh luyện của nhà thơ. Nhà thơ không ngừng sáng tạo, gọt giũa, nhào luyện để tạo nên giá trị về nghệ thuật ngôn từ tạo nên ngôn ngữ để sáng tạo thơ ca. Ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện, mới mang được dấu ấn sáng tạo riêng của người nghệ sĩ.

Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ