Tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông nghiệp

Thứ tư, 02/09/2020 - 07:00 AM

Sau 8 năm thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, cơ cấu lại ngành nông nghiệp đã đem lại nhiều thành quả to lớn, tạo sự chuyển biến rõ rệt về cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế ở nông thôn. Sản xuất chuyển mạnh theo hướng chất lượng và giá trị gia tăng, sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ được các cấp, ngành, doanh nghiệp và nông dân quan tâm phát triển, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giải quyết việc làm, giảm nghèo và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, trở thành cường quốc về xuất khẩu nông lâm thủy sản.

Tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông nghiệp
Chuyên gia Úc kiểm tra dây chuyền chiếu xạ tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội. Ảnh: Lê Bền.

Theo Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, giai đoạn 2016-2020 khoa học công nghệ đã tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm của ngành và các vấn đề mà thực tiễn sản xuất yêu cầu. Đó là việc tập trung đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật nhất là công nghệ cao vào sản xuất, bảo quản chế biến sản phẩm nông nghiệp và đã tạo ra đột phá về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cho hàng hoá nông sản và ngành nông nghiệp đối với thị trường nội địa và quốc tế. Nông sản Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU,... Xuất khẩu nông sản Việt Nam đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới.

Cùng với đó, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đã thúc đẩy phát triển sản xuất, chế biến, kinh doanh theo hướng liên kết chuỗi giá trị, đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, hình thành vùng sản xuất khép kín quy mô hàng hoá, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu.

Công nhận hàng trăm giống, vật nuôi

Từ kết quả nghiên cứu, Bộ NN-PTNT đã công nhận 210 giống mới (trong đó, giống cây trồng: 157, giống thủy sản: 12; giống cây lâm nghiệp: 22 và giống vật nuôi: 19), 169 tiến bộ kỹ thuật mới (trồng trọt là 71 tiến bộ kỹ thuật, chăn nuôi 34 tiến bộ kỹ thuật, lâm nghiệp 21 tiến bộ kỹ thuật; thủy lợi 28 tiến bộ kỹ thuật, thủy sản 15 tiến bộ kỹ thuật), 81 sáng chế/giải pháp hữu ích đã được công nhận; nhiều công trình được công bố trong Sách vàng Sáng tạo Việt Nam; 1.889 bài báo được đăng trên các tạp chí quốc tế; 4324 bài báo được đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và nhiều giải thưởng cao quý như VIFOTEC, Bông lúa vàng, Techmart, Châu Á Thái Bình Dương...

Các giống cây trồng, vật nuôi, chế phẩm sinh học, quy trình công nghệ mới,… đã được chuyển giao áp dụng vào sản xuất nông nghiệp thông qua doanh nghiệp và người nông dân, giảm chi phí đầu tư, góp phần tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp; nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản đã giúp tăng hiệu quả kinh tế từ 10-30%; góp phần thay đổi tập quán, thói quen canh tác, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế của ngành nông nghiệp.

Tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông nghiệp
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường (thứ tư từ trái qua) thăm mô hình thủy sản tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Lê Tuấn.

Lĩnh vực khoa học công nghệ cũng đã thu hút nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong nước quan tâm và đã đầu tư với quy mô lớn, theo chuỗi giá trị ngành hàng. Những doanh nghiệp này đã áp dụng nhiều quy trình sản xuất hiện đại, công nghệ mới, công nghệ nhập khẩu và đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành như Vinaseed, ThaiBinhseed, Lộc Trời, Masan...

Việt Nam đã chọn tạo, được chuyển giao và ứng dụng các giống lúa trên phạm vi cả nước với diện tích là 4,6 triệu ha, chiếm 60% tổng diện tích lúa cả nước. Riêng vùng ĐBSCL là trên 80% diện tích cả vùng, trong đó giống lúa OM5451 đã được gieo trồng trên diện tích gần 1.000.000 ha ở ĐBSCL.

Khoa học công nghệ là một trong hai trụ cột chính của công cuộc cơ cấu lại ngành nông nghiệp

Việc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cải tạo giống cây ăn quả, bám sát nhu cầu thị trường, tăng cường áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến và áp dụng biện pháp kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh, quản lý tính kháng thuốc, quản lý dịch hại tổng hợp đã góp phần trực tiếp đưa diện tích cây ăn quả tăng mạnh, từ 869,1 nghìn ha năm 2016 lên tới 1,1 triệu ha 2020. Trong đó cam, quýt và bưởi, bòng tăng mạnh về diện tích và sản lượng.

Diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm ngày càng được mở rộng và tăng đều qua các năm, từ 3,32 triệu ha năm 2016 lên 3,58 triệu ha năm 2020. Bình quân tăng khoảng 66 nghìn ha/năm; sản lượng cà phê nhân tăng 23,2 nghìn tấn, sản lượng búp chè tươi tăng 16,4 nghìn tấn, sản lượng mủ khô cao su tăng 182,3 nghìn tấn, sản lượng hồ tiêu tăng 58,6 nghìn tấn. Giống cà phê mới cho năng suất cà phê Việt Nam cao hơn cà phê thế giới từ 2-2,5 lần.

Để giải quyết bài toán làm chủ công nghệ về con giống, ngành tôm Việt Nam từ các viện, trường đến các doanh nghiệp, tập đoàn lớn như Tập đoàn Nam miền Trung, Việt Úc đã vào cuộc quyết liệt, với quyết tâm cao, góp phần từng bước chủ động được con giống, thúc đẩy ngành tôm phát triển mạnh mẽ.

Đối với con cá tra, một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đã làm chủ công nghệ và chuyển giao vào sản xuất giống cá tra bố mẹ và từng bước đáp ứng đủ giống chất lượng cho sản xuất... Đồng thời, nâng cao chất lượng và tỷ lệ sống của cá tra trong giai đoạn ương nuôi con giống đạt tỷ lệ sống gần 50%; giống cá tra tăng trưởng nhanh (tăng trên 20%)...

Trong chăn nuôi, đã chọn lọc thành công dòng lợn nái có số con cai sữa đạt 26,1 con/nái/năm. Chọn tạo được giống lợn thịt thương phẩm tăng trọng nhanh (>750 gram/ngày), tiêu tốn thức ăn thấp (<2,5 kg thức ăn/kg tăng khối lượng) và chọn tạo được dòng lợn có tỷ lệ mỡ giắt trên 3%.

Kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam đến năm 2017 đạt trên 8,0 tỷ USD, năm 2019 đạt trên 11,3 tỷ USD, vượt xa mục tiêu đến 2020 phải đạt được là 7,8 tỷ USD. Để đạt được kết quả đó, có sự đóng góp quan trọng của công tác chọn tạo giống mới cùng với kỹ thuật trồng rừng thâm canh đã đưa năng suất rừng trồng cây sinh trưởng nhanh (keo, bạch đàn) có nơi lên đến 40-45 m3/ha/năm, trung bình đạt khoảng 20 m3/ha/năm.

Tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông nghiệp
Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé sẽ giúp kiểm soát nguồn nước (mặn, lợ, ngọt), tạo điều kiện sản xuất ổn định, bền vững đối với các mô hình sản xuất theo hệ sinh thái (ngọt, mặn - lợ, ngọt - lợ luân phiên) cho vùng hưởng lợi tại Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Đinh Tùng.

Trong lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai, đã có nhiều giải pháp, công nghệ, vật liệu mới được công nhận đưa vào ứng dụng trong xây dựng công trình; ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong cảnh báo, dự báo nguồn nước, hạn mặn, thiên tai phục vụ chỉ đạo, điều hành sản xuất chủ động, ổn định; ứng dụng thiết bị, quy trình tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho các cây trồng chủ lực... góp phần quan trọng trong phòng, chống thiên thai, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, bền vững.

Từ những đóng góp trên có thể khẳng định, khoa học công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong ngành nông nghiệp, là một trong hai trụ cột chính của công cuộc cơ cấu lại ngành nông nghiệp.

Giai đoạn 2016 - 2020, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản đã có những bước tiến đáng kể, với tốc độ tăng giá trị tăng thêm khoảng 7 - 8%/năm. Nhiều địa phương đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông sản có công suất thiết kế đảm bảo chế biến lên đến hơn 100 triệu tấn nguyên liệu nông sản/năm. Trong đó có trên 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu.

Riêng trong hai năm 2018 và 2019 đã có 30 dự án lớn về chế biến nông lâm thủy sản với số vốn đầu tư khoảng 1 tỷ USD đã khởi công xây dựng và một số cơ sở đã hoàn thành đi vào sản xuất. Nhờ đó, cơ cấu sản phẩm chế biến tinh, chế biến sâu trong tổng sản phẩm xuất khẩu đã tăng, giá trị nông lâm thủy sản xuất khẩu duy trì mức tăng trưởng khá, xuất siêu ngày càng tăng đưa nông sản Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản.

Ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật (ƯDTBKHKT) vào sản xuất nông nghiệp là yếu tố quan trọng giúp nâng cao năng suất, chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp. Hơn nữa, trong bối cảnh tình hình biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp thì việc ƯDTBKHKT vào sản xuất nông nghiệp ngày càng được các đơn vị, địa phương và bà con nông dân quan tâm.

Tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông nghiệp
Mô hình trồng dưa Kim Hoàng Hậu ứng dụng van điện từ trong công nghệ tưới của Công ty CP Ứng dụng và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Điền Trạch, xã Thọ Lâm (Thọ Xuân).

Với mục tiêu cải thiện hệ thống nông nghiệp có tưới trong điều kiện thiếu nước sản xuất như hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi để bà con nông dân sản xuất, góp phần tăng năng suất cây trồng, được sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới, năm 2017, tỉnh ta đã triển khai thực hiện mô hình sản xuất lúa ứng dụng kỹ thuật canh tác và tưới thông minh thích ứng biến đổi khí hậu tại 2 huyện Yên Định và Thiệu Hóa, với tổng diện tích 120 ha. Theo đó, ngành nông nghiệp và 2 huyện được triển khai thực hiện đã tiến hành xây dựng cánh đồng mẫu lớn; đồng thời, chuyển giao và áp dụng các kỹ thuật hiện đại vào xây dựng, trình diễn mô hình cải thiện hệ thống tưới, tiêu cùng với thúc đẩy phát triển và ứng dụng các thực hành nông nghiệp tốt thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật hiện đại và tưới thông minh vào sản xuất lúa tại huyện Yên Định và Thiệu Hóa đã cho kết quả tốt, ruộng lúa không còn sâu bệnh, năng suất trung bình đạt 75 - 77 tạ/ha, đầu ra sản phẩm an toàn, hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.

Đầu năm 2020, mô hình ứng dụng van điện từ trong công nghệ tưới được Công ty CP Ứng dụng và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Điền Trạch, xã Thọ Lâm (Thọ Xuân) lắp đặt cho toàn bộ 12.000 m2 khu sản xuất dưa Kim Hoàng Hậu theo hướng công nghệ cao. Mô hình được sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt hiện đại theo công nghệ Israel kết hợp với thiết bị cảm biến điện từ sử dụng năng lượng mặt trời. Quá trình tưới nước được cung cấp trực tiếp tới gốc cây, giúp cây dễ dàng thấm sâu và hấp thụ, không bị thất thoát, bốc hơi, nhờ đó tiết kiệm được nguồn nước tưới. Ngoài ra, phân bón được hòa lẫn vào nước và cho vào bình chứa, sau đó tưới trực tiếp cho cây trồng thông qua hệ thống tưới, nên hạn chế được tình trạng phân bón rơi vãi, lãng phí, giúp tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Điều đáng nói là công nghệ này cho phép người dùng mặc dù ở bất cứ đâu cũng có thể điều khiển trực tiếp hệ thống tưới trên màn hình điện thoại thông minh.

Đánh giá về hiệu quả khi ứng dụng van điện từ trong công nghệ tưới trong quá trình sản xuất, ông Đỗ Văn Tùng, Giám đốc Công ty CP Ứng dụng và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Điền Trạch, cho biết: Việc ứng dụng công nghệ tưới thông minh, cùng với việc chủ động xây dựng được công thức tưới dinh dưỡng phù hợp với điều kiện sản xuất, kết hợp với bộ châm phân chính xác, nên diện tích trồng dưa Kim Hoàng Hậu của công ty luôn được hấp thu vừa đủ các chất dinh dưỡng cần thiết, giúp cây phát triển khỏe mạnh, loại bỏ tồn dư trong sản phẩm. Hơn nữa, do hệ thống tưới được gắn điều khiển với các thiết bị thông minh, nên người quản lý có thể điều khiển tại chỗ hoặc ở bất kỳ đâu chỉ bằng một chiếc smatphone hoặc một máy tính có kết nối Internet. Nhờ đó, giảm tới 90% chi phí sử dụng nhân công, diện tích trồng dưa Kim Hoàng Hậu đạt năng suất ổn định từ 27 đến 29 tấn/ha/vụ, cao hơn 5 đến 7 tấn/ha/vụ so với diện tích không ứng dụng van điện từ trong công nghệ tưới. Ngoài ra, do đã được lập trình sẵn, nên chỉ số cung cấp dinh dưỡng được thực hiện chính xác, vì vậy sản phẩm luôn bảo đảm được độ ngọt, giòn, mọng nước, tạo được thương hiệu riêng cho sản phẩm của công ty. Do đó, việc ứng dụng van điện từ trong công nghệ tưới trong quá trình sản xuất giúp hiệu quả kinh tế đạt cao hơn từ 20 đến 25% so với diện tích sản xuất thông thường.

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hầu hết các mô hình sản xuất nông nghiệp ƯDTBKHKT đều chứng minh được hiệu quả về kinh tế, chất lượng, cũng như việc giải phóng sức lao động để hướng đến một nền nông nghiệp hiện đại. Vì vậy, những năm qua, ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương các cấp đã và đang nỗ lực đẩy mạnh ƯDTBKHKT vào sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó, tỷ lệ sử dụng giống ƯDTBKHKT của tỉnh hiện đã bằng mức trung bình của các nước, đạt 90% đối với lúa, 95% đối với ngô, 80% đối với rau màu, 70 - 80% đối với cây công nghiệp, 70% đối với cây ăn quả. Trên địa bàn tỉnh đã nhân rộng được nhiều mô hình ƯDTBKHKT trong sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao, trong đó, nổi bật nhất là sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ có mái che.

Bài và ảnh: Hương Thơm