Tính chất cơ bản của chân lý là gì


chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngồi, ngẫu nhiên, khơng bản chất của đối
tượng và tự nó khơng thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng kết, trừu tượng, khái quát
đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông
thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.
Như vậy, việc đạt tới những tri thức khoa học trong quá trình nhận thức diễn ra theo những cấp độ khác nhau từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ nhận thức
kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức thông thường đến nhận thức khoa học. Mỗi cấp độ nhận thức đó có những nội dung và ý nghĩa khác nhau, không đồng nhất với
nhau. Tuy nhiên, dù có diễn ra theo trật tự nào thì việc đạt tới những tri thức về bản chất của sự vật vẫn chưa dừng lại ở đó mà nhận thức phải tiếp tục tìm hiểu xem những tri
thức đó có phải là chân lý hay khơng. Chính vì thế mà vấn đề chân lý được xem là một trong những nội dung cơ bản của lý luận về nhận thức.
III- Vấn đề chân lý 1. Khái niệm chân lý
Các nhà triết học có những quan điểm khác nhau về chân lý và về tiêu chuẩn của chân lý.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Quan niệm như vậy về chân lý
cũng có nghĩa xác định chân lý là sản phẩm của q trình nhận thức. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. V.I.Lênin đã nhận xét Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một q trình: tư tưởng = con người khơng nên hình
dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh hình ảnh đơn giản, nhợt nhạt lờ mờ, không khuynh hướng, không vận động
1
.

2. Các tính chất của chân lý

Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Tính khách quan của chân lý là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý
thức của con người và lồi người. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của
con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Ví dụ, luận điểm cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời là một chân lý. Chân
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr. 207.
144
lý ấy có tính khách quan bởi vì nội dung của luận điểm đó phản ánh đúng sự kiện có thực, tồn tại độc lập đối với mọi người, không lệ thuộc vào ý thức của mỗi người.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những đặc điểm nổi bật dùng để phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng so với chủ nghĩa
duy tâm và thuyết không thể biết. Đồng thời đó cũng là sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.
Chân lý không chỉ có tính khách quan mà nó còn có tính tuyệt đối và tính tương đối. Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hồn tồn và đầy đủ giữa nội dung phản
ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến tính tuyệt đối của chân lý chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan khơng tồn tại
một sự vật, hiện tượng nào mà con người hồn tồn khơng thể nhận thức được. Khả năng đó trong q trình phát triển là vơ hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những
điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý lại có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hồn tồn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa là giữa nội
dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý khơng tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết: Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ
tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản ánh ấy
ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối
1
. Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và
tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và trong hành động. Nếu cường điệu tính
tuyệt đối của chân lý,
hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp
vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và khơng thể biết.
Ngồi tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ thể. Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể. Điều đó có
1. V.I.Lênin: Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 383.
145
nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định. Nội dung đó khơng phải là sự trừu tượng thuần túy thốt ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền với
một đối tượng xác định, diễn ra trong một khơng gian, thời gian hay một hồn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn
liền với những điều kiện lịch sử - cụ thể, cũng có tính cụ thể. Nếu thốt ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi
vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó khơng phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này V.I.Lênin đã viết: khơng có
chân lý trừu tượng, rằng chân lý luôn luôn là cụ thể
1
. Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan
điểm lịch sử - cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo V.I.Lênin, bản chất, linh hồn sống của chủ
nghĩa Mác: là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể
2
. Rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể
nhất định. Quán triệt nguyên tắc đó, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Đồng thời luôn luôn xuất phát từ những điều kiện
lịch sử cụ thể của đất nước để đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Như vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Các tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, khơng tách rời
nhau. Thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong q trình nhận thức khơng thể có giá trị đối với đời sống của con người.
Câu hỏi ơn tập
1. Trình bày bản chất của nhận thức? 2. Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
3. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức? 4. Chân lý là gì? Các tính chất cơ bản của chân lý?
1. Sđd, t.42, tr. 364.
2
. Sđd, t. 41, tr. 164.
146

Chương X Hình thái kinh tế - xã hội