Ho gà là một bệnh dễ lây lan xảy ra chủ yếu ở trẻ em và thanh thiếu niên và do vi khuẩn gram âm Bordetella pertussis gây ra. Các triệu chứng ban đầu của nhiễm trùng đường hô hấp trên không đặc hiệu, sau đó là ho dữ dội hoặc kiểu co thắt, thường kết thúc bằng thở rít, âm độ cao, như tiếng gà (cơn ho gà). Chẩn đoán là bằng nuôi cấy dịch mũi họng, xét nghiệm PCR và huyết thanh học. Điều trị bằng kháng sinh macrolide. Ho gà xuất hiện trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh ở Mỹ chu kỳ mỗi 3 đến 5 năm. Ho gà chỉ xảy ra ở người; không có vật chủ động vật. Sự lây truyền chủ yếu qua các giọt dịch tiết đường hô hấp có chứaB. pertussis (cầu trực khuẩn nhỏ, không di động, gram âm) từ những bệnh nhân bị nhiễm, đặc biệt là trong giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn khởi phát. Nhiễm bệnh rất dễ lây và gây bệnh ở ≥ 80% trẻ em có tiếp xúc gần. Việc truyền qua tiếp xúc với các vật bị nhiễm là hiếm. Bệnh nhân thường không lây sau tuần thứ 3 của giai đoạn toàn phát.
Những bệnh nhân không được bảo vệ như vậy có thể bị bệnh; hơn nữa, những thanh thiếu niên không được bảo vệ và người lớn là vật chủ quan trọng cho B. pertussis và do đó thường là nguồn lây nhiễm cho trẻ sơ sinh không được bảo vệ < 1 tuổi (có tỉ lệ mắc mới cao nhất và tỷ lệ tử vong cao nhất). Ngoài ra, độc lực của các chủng dịch có thể đang gia tăng. Lần nhiễm đầu tiên không tạo ra miễn dịch tự nhiên suốt đời, nhưng các lần thứ 2 và sau tiêm vắc-xin ở trẻ vị thành niên và người lớn có khiếm khuyết về miễn dịch thường nhẹ và thường không được nhận ra. Động kinh thường xảy ra ở trẻ nhỏ nhưng hiếm gặp ở trẻ lớn hơn. Xuất huyết não, mắt, da và màng nhầy có thể là hậu quả của các cơn kịch phát và hậu quả gây ra chứng khô miệng. Xuất huyết não, phù não và viêm não có chứa chất độc có thể gây tê liệt, khiếm khuyết trí tuệ (rối loạn tâm thần) hoặc rối loạn thần kinh khác. Thoát vị rốn và trực tràng đôi khi xảy ra. Bệnh này, do B. parapertussis, có thể không thể phân biệt được về mặt lâm sàng với bệnh ho gà nhưng thường nhẹ hơn và ít gây tử vong hơn. Các triệu chứng và dấu hiệu của ho gàThời kỳ ủ bệnh trung bình từ 7 đến 14 ngày (tối đa 3 tuần). B. pertussis xâm nhập niêm mạc đường hô hấp, làm tăng tiết chất nhầy, ban đầu mỏng và sau đó là nhớt, dai và dính. Bệnh không biến chứng kéo dài khoảng 6 đến 10 tuần và bao gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn khởi phát bắt đầu một cách mạnh mẽ, thường là hắt hơi, chảy nước mắt, hoặc sổ mũi; chán ăn; bơ phờ; ho khan về đêm dần dần ho cả ngày. Có thể khàn tiếng. Sốt là rất hiếm. Sau 10 đến 14 ngày, giai đoạn toàn phát bắt đầu với sự gia tăng mức độ nghiêm trọng và tần suất ho. Lặp đi lặp lại ≥ 5 cơn ho nặng xuất hiện liên tiếp trong 1 nhịp thở ra, tiếp theo đó là tiếng ho gà- nhanh, hít sâu. Chất nhầy nhớt quánh dính có thể bị bắn ra hoặc bong bóng ra khỏi mũi trong hoặc sau thời kỳ toàn phát. Nôn mửa là đặc trưng. Ở trẻ sơ sinh, chứng nghẹt thở (có hoặc không có xanh tím) có thể phổ biến hơn nhiều. Triệu chứng giảm đi khi giai đoạn hồi phục bắt đầu, thường là trong vòng 4 tuần. Thời gian trung bình của bệnh là khoảng 7 tuần (khoảng 3 tuần đến 3 tháng hoặc nhiều hơn). Ho có thể tái phát trong nhiều tháng, thường gây ra ở đường hô hấp còn nhạy cảm do kích ứng từ nhiễm trùng đường hô hấp trên.
Giai đoạn xuất tiết thường khó phân biệt với viêm phế quản Viêm phế quản cấp Viêm phế quản cấp là tình trạng viêm của cây khí quản, thường xảy ra sau nhiễm trùng đường hô hấp trên, xảy ra ở những bệnh nhân không bị rối loạn phổi mãn tính. Nguyên nhân hầu hết là do nhiễm... đọc thêm hoặc cúm Cúm Cúm là một nhiễm trùng hô hấp do vi rút gây sốt, sổ mũi, ho, đau đầu và mệt mỏi. Tỷ lệ tử vong có thể xảy ra trong các đợt dịch bộc phát theo mùa, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy cơ cao... đọc thêm . Nhiễm Adenovirus Nhiễm adenovirus Nhiễm một trong số nhiều loại adenovirus có thể không có triệu chứng hoặc gây ra các hội chứng cụ thể, bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp nhẹ, viêm kết giác mạc, viêm dạ dày và ruột, viêm bàng... đọc thêm và Lao Bệnh lao (TB) Bệnh lao (TB) là bệnh nhiễm trùng mycobacterial tiến triển mãn tính, thường có thời gian tiềm tàng sau nhiễm trùng ban đầu. Lao thường ảnh hưởng đến phổi. Triệu chứng bao gồm ho có đờm, sốt... đọc thêm cũng nên được xem xét. Nuôi cấy dịch hầu họng B. pertussis dương tính 80 đến 90% trường hợp trong giai đoạn xuất tiết và toàn phát sớm. Vì cần phải có phương tiện đặc biệt và cần ủ kéo dài, phòng thí nghiệm cần được thông báo rằng nghi ngờ là ho gà. Xét nghiệm kháng thể huỳnh quang đặc hiệu của các dịch mũi họng được chẩn đoán chính xác ho gà nhưng không nhạy cảm như nuôi cấy. Xét nghiệm huyết thanh giai đoạn cấp tính và giai đoạn hồi phục. Xét nghiệm PCR của các mẫu từ mũi họng là xét nghiệm nhạy và tốt nhất. Số lượng bạch cầu thường là từ 15.000 đến 20.000/mcL (15 and 20 × 109/L) nhưng có thể là bình thường hoặc cao đến 60.000/mcL (60 × 109/L), thường với 60 đến 80% lymphocytes nhỏ. Phó ho gà được phân biệt bằng nuôi cấy hoặc kỹ thuật kháng thể huỳnh quang.
Dành cho trẻ sơ sinh suy hô nặng. Sự cách ly được tiếp tục cho đến khi kháng sinh sử dụng trong 5 ngày. Ở trẻ sơ sinh, hút dịch để loại bỏ chất nhầy dư thừa từ cổ họng có thể là biện pháp hỗ trợ. Oxygen và mở khí quản hoặc đặt nội khí quản qua đường mũi họng đôi khi là cần thiết. Thuốc giảm đau, thuốc giảm ho và thuốc an thần nhẹ có giá trị rất thấp. Vì bất kỳ sự xáo trộn nào có thể gây ra ho ho đột ngột với tình trạng thiếu oxy, trẻ sơ sinh nặng nên được giữ trong một căn phòng tối, yên tĩnh và bị quấy rầy càng ít càng tốt. Bệnh nhân được điều trị tại nhà cần được cách ly, đặc biệt là từ những trẻ nhạy cảm, trong ít nhất 4 tuần kể từ khi bắt đầu điều trị và cho đến khi các triệu chứng giảm. Thuốc kháng sinh trong giai đoạn xuất tiết có thể cải thiện bệnh. Sau khi toàn phát, kháng sinh thường không có tác dụng lâm sàng nhưng được khuyến cáo để hạn chế sự lây lan. Thuốc ưu tiên là
Trimethoprim/sulfamethoxazole có thể được thay thế ở những bệnh nhân ≥ 2 tháng không dung nạp hoặc quá mẫn với kháng sinh macrolide. Kháng sinh cũng nên điều trị cho các biến chứng (ví dụ, viêm phổi, viêm tai giữa). Miễn dịch sau khi nhiễm trùng tự nhiên kéo dài khoảng 20 năm. Những người tiếp xúc gần < 7 tuổi đã tiêm < 4 liều vắc xin nên hoàn thành lịch tiêm chủng được khuyến nghị ở trẻ em. Thuốc kháng sinh sau phơi nhiễm nên được sử dụng cho những người tiếp xúc trong gia đình trong vòng 21 ngày kể từ khi bắt đầu ho ở bệnh nhân, cho dù họ đã được tiêm phòng hay chưa. Kháng sinh sau phơi nhiễm cũng nên được dùng cho những người có nguy cơ cao sau đây trong vòng 21 ngày kể từ khi được tiêm phòng, cho dù họ đã được tiêm phòng hay chưa:
Những người này nên được dùng liều 7 đến 14 ngày uống erythromycin 500 mg 4 lần mỗi ngày hoặc 10 đến 12,5 mg/kg 4 lần mỗi ngày. Thuốc kháng sinh thay thế bao gồm clarithromycin và azithromycin. Đối với trẻ sơ sinh < 1 tháng, azithromycin được ưu tiên sử dụng để điều trị dự phòng sau phơi nhiễm.
Sau đây là một nguồn bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này. |