NGỔM THÁC NÚI LO' (Vọng Lư Sơn bộc bô) MỤC TIẾU BÀI HỌC Thấy được vẻ đẹp của thác nước Lư Sơn. Bước đầu có ý thức và biết sử dụng thơ dịch trong việc phân tích tác phẩm. TÌM HIỂU NỘI DUNG Lí Bạch (701-762) là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liêm cư sĩ. Tuổi trẻ ông đã xa gia đình để đi chu du, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Lí Bạch được mệnh danh là “ tiên thơ”. Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Vọng Lư Sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu nhất về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. TRẢ LỜI CÂU HỎI Xác định điểm nhìn của tác giả đối với toàn cảnh. Điểm nhìn đó có lợi như thế nào trong việc phát triển những đặc điểm của thác nước? Ngay từ tựa đề bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố, chữ vọng có nghĩa là trông từ xa, Lư sơn: núi Lư; bộc bố: thác nước từ trên cao đổ xuống nhìn xa như một tâm vải treo dọc buông rủ xuống. Như vậy ta có thể xác nhận điểm nhìn của tác giả là điểm nhìn từ xa. Điểm nhìn này không cho phép nhìn tỉ mỉ từng sự vật nhưng nó lại dễ dàng phát hiện vẻ đẹp hùng vĩ của toàn cảnh. Xác định vị trí của câu thứ nhát trong bô' cục bài thơ. Câu này tả cái gì và tả như thế nào? Vị trí của câu thơ thứ (1) trong bô' cục bài thơ. Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên. (Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía) Tác giả miêu tả vẻ đẹp của ngọn núi Hương Lô khi mà ánh sáng mặt trời chiếu vào và làn hơi nước bô'c lên phản quang ánh sáng nó đã chuyển thành màu đỏ tía, vừa rực rỡ, vừa kì ảo. Như vậy vị trí của câu thơ (1). trong bô' cục bài thơ chính là cái nền của bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của thác nước Lư Sơn. - Câu thơ này miêu tả ánh sáng mặt trời chiếu vào ngọn núi Hương Lô sinh làn khói tía. Nêu lên vẻ đẹp khác nhau của thác được Lí Bạch phát hiện và miêu tả trong 3 câu sau. Câu thơ thứ hai: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên (Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước) Vì tác giả đứng nhìn từ xa nên dưới mắt nhà thơ vốn thác nước đang chảy ầm ầm xuống chân núi đã biến thành một dải lụa trắng yên ắng bất động được treo ở khoảng giữa vách núi và dòng sông. Chữ “quải” đã biến cái động thành cái tĩnh. Như vậy toàn cảnh bức tranh được miêu tả: Đỉnh núi có khói tía bay mịt mù, phía dưới chân núi dòng sông đang chảy, khoảng giữa là thác nước treo cao như dải lụa. Quả thực là một cảnh đẹp huyền ảo. Phi lưu trực há tam thiên xích (Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước) Cảnh vật ở câu này không còn ở trạng thái tĩnh nữa nó đã chuyển sang trạng thái động. Từ phi và trực đã cho thấy điều đó. Đỉnh núi cao, sườn núi dựng đứng. Thông qua hình ảnh này, Lí Bạch muôn miêu tả cảnh hùng vĩ của thác. Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên. (Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín từng mây) Thác nước ở đây không chỉ rực rỡ như một bức danh họa tráng lệ mà còn có một vẻ đẹp huyền ảo. Từ nghi và hình ảnh Ngân Hà lạc cho ta một cảm giác hư hư thực thực. Thực là có dòng sông Ngân Hà vốn nằm theo chiều ngang vắt qua bầu trời do những ngôi sao li ti hợp thành. Hư là dòng sông Ngân Hà lại đổ theo chiều dọc từ chín tầng mây xuống. Đây chính là sự kết hợp tài tình giữa cái ảo và cái hiện thực để tạo nên một cái kì diệu của thác Lư Sơn. Qua đặc điểm cảnh vật được miêu tả, ta có thể thấy những nét gì trong tâm hồn và tính cách nhà thơ? Qua cảnh vật được miêu tả ta thấy những nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ: Có một tình yêu quê hương đất nước, biết trân trọng cái đẹp của thiên nhiên và biểu lộ nó bằng cả một tình yêu mạnh mẽ và hào phóng. Ghi nhớ: Đọc SGK. Câu 9. Nội dung của bài thơ Xa ngắm thác núi Lư? A. Miêu tả vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước từ trên đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên và cá tính mạnh mẽ của tác giả B. Miêu tả cảnh tráng lệ của thác núi Lư khi nhìn từ xa C. Thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, phóng khoáng của tác giả D. Cả 3 đáp án trên
Câu thứ nhất: Nhật chiếu Hương Lô sinh tứ yên: Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía tả hình dáng ngọn núi Hương Lô, cái phông nền của dòng thác. Nhà thơ phác ra được cái hình lẫn cái thần của ngọn núi, những cái đã khiến dân gian đặt tên cho nó là Hương Lô (lò hương). Trước Lí Bạch trên ba trăm năm, nhà sư Tuệ Viễn (334 – 417) đã từng tả: Khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói. Cái mới mẻ đặc sắc mà Lí Bạch đem đến cho vẻ đẹp Hương Lô là chọn thời điểm để miêu tả: núi Hương Lô lộ ra dưới ánh sáng mặt trời khi mà cảnh vật tràn đầy sinh khí và biến ảo. Tuy hơi khói đã có từ trước, nói đúng hơn là luôn luôn có, là tồn tại thường xuyên, nhưng động từ “sinh” mà Lí Bạch dùng ở đây đã khiến ánh sáng mặt trời xuất hiện như một chủ thể khiến cho muôn loài mọi vật sinh sôi nảy nở và sông động hơn lên. Chính vì vậy, từ động từ sinh, người dịch đã chuyển đổi ra động từ bay làm cho mối quan hệ nhân quả giữa hai vế: Nhật chiếu Hương Lô/tử yên bị xóa đi, và sự biến hóa vì vậy đã bị xua tan. Câu 3. Nêu lên những vẻ đẹp khác nhau của thác đã được Lí Bạch phát hiện và miêu tả trong ba câu tiếp theo. (Gợi ý: – Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ quải (câu thứ hai), từ đó chỉ ra chỗ hạn chế của bản dịch thơ. – Chứng minh rằng qua câu thơ thứ ba, ta không chỉ thấy hình ảnh của dòng thác mà còn hình dung được đặc điểm của dãy núi Lư và đỉnh núi Hương Lô. – Giải thích vì sao lối nói phóng đại ở câu thứ tư vẫn tạo nên được một hình ảnh chân thực). Câu thứ hai: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên (Xa trông dòng thác trước sông này). Từ quải (treo) là từ quan trọng nhất trong câu không được dịch thơ khiến câu thơ dịch đã kém sinh động. Câu này không chỉ làm rõ ý của đề mà còn cho thấy ấn tượng ban sơ của tac giả đối với thác nước. Từ quải biến động thành tĩnh. Vì ngắm từ xa, thác nước trên cao đổ ầm ầm xuống trông như một dải lụa trắng rủ xuống yên ắng và bất động treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông. Hai câu thơ 1 và 2 đẹp như một bức tranh tráng lệ kì vĩ: đỉnh núi mịt mù một màu khói tía, dưới chân núi là đòng sông tuôn chảy và khoảng giữa là thác treo cao như một dải lụa trắng. Đến câu thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích (Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước). Câu thơ từ tĩnh chuyển sang động: phi lưa (chảy như bay) gợi người đọc mường tượng một thế núi cao. Trực há (thẳng xuống) mường tượng ra một sườn núi dốc đứng. Tam thiên xích (ba nghìn thước) con số ước lệ, khoa trương nhưng đọc lên vẫn thấy chân thực lạ thường. Cuối cùng là câu: Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên (Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây) là sự kết hợp tài tình giữa thực và ảo làm nên cảm giác bay bổng diệu kì của nhà thơ. Nghi thị (Ngỡ là) ở đây biết rõ sự vật không phải là như vậy nhưng nhà thơ vẫn tin và thuyết phục người đọc tin là như vậy. Đó chính là sức mạnh kì lạ của thơ ca. Câu 4. Qua đặc điểm cảnh vật được miêu tả, ta có thể thấy những nét gì trong tâm hồn và tính cách của nhà thơ? Qua việc sử dụng từ ngữ cũng như qua đặc điểm các hình ảnh trong bài thơ, chúng ta có thể thấy ở tâm hồn và tính cách của nhà thơ Lí Bạch: một tình cảm bao la, cảm xúc sâu lắng phát xuất từ tình yêu thiên nhiên say đắm mãnh liệt của nhà thơ. Dưới ngòi bút của thi tiên, hình ảnh thác núi Lư đẹp đẽ kì vĩ và tráng lệ sinh động lạ thường. Hình ảnh thác núi Lưu như “dải Ngân Hà tuột khỏi mây” làm cho người đọc liên tưởng đến các hình ảnh “sông Hoàng chảy vỡ núi Côn Lôn” (bài Công Vô Độ hà), “sông Hoàng sợi tơ từ trời xuống” (bài Tây Nhạc Vân Đài ca tống Đan Khâu)… đủ thấy tâm hồn Lí Bạch lãng mạn và bay bổng đến dường nào, biểu lộ ước vọng khao khát mạnh mẽ về lẽ sống của ông. Câu 5*. Về hai cách hiểu câu thứ hai (cách hiểu ở bản dịch nghĩa và cách hiểu trong chú thích (2)), em thích cách hiểu nào hơn? Vì sao? Về hai cách hiểu câu thứ hai: – Ở bản dịch nghĩa: Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước. – Ở chú thích: “Đứng trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt”. Nghĩa là dòng sông phía trước phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Cách hiểu thứ hai bay bổng hơn, lãng mạn hơn nên được nhiều người thích hơn. |