Từ đơn phong cách và từ đa phong cách là gì

Trong NN của mỗi dân tộc, từ vựng bao giờ cũng là bộ phận phát triển nhanh nhất và thay đổi sớm nhất so với ngữ âm và ngữ pháp. Từ tiếng Việt cũng không nằm ngoài quy luật này. Với tư cách là đơn vị nhỏ nhất của NN có ý nghĩa, có thể dùng độc lập để cấu tạo câu; số lượng các từ trong mỗi NN là một số lượng lớn. Hơn nữa, đây là hệ thống mở, thường nảy sinh các từ mới, các từ cũ dần bị đào thải. Từ tiếng Việt, về mặt ngữ pháp không biến đổi hình thức. Đó là một đặc trưng loại hình tiêu biểu của NN đơn lập. Nhưng trong HĐHC, nó vẫn biến đổi về cả ngữ âm, hình thức cấu tạo, nghĩa, ngữ pháp (từ loại), cho đến phong cách; để phục vụ cho các mục đích giao tiếp khác, tuy rằng sự biến đổi đó không mang tính đồng loạt và cũng không mang tính bắt buộc.

1. Trước hết, từ tiếng Việt có thể biến đổi ở bình diện ngữ âm.  Cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng trong đời sống, ở những địa phương khác nhau có thể có những cách viết và phát âm không giống nhau. Ví dụ: Người miền Nam gọi rượu (cách gọi của người miền Bắc) là gượu; người miền Trung (Huế) không nói xả hàng, trái, giường, đâu, đầu... như cách gọi của người miền Bắc, mà lần lượt phát âm là xả hàng, trấy, chờn, mô, trốt.... Ngoài ra, có thể thấy những biến âm khác như chánh trị - chính trị, thạnh vượng – thịnh vượng, cách mệnh – cách mạng....


Bên cạnh đó, có những biến âm xảy ra trong quá trình phát triển lịch sử như: lanh thay cho nhanh, gần đây trên báo còn xuất hiện từ rúng động thay cho rung động... Như vậy, cùng một từ, trên bình diện ngữ âm, có thể có ít nhiều biến đổi giữa các phương ngữ hay giữa các thời kì lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, sự biến đổi, chuyển hóa đó không ảnh hưởng lớn đến tính thống nhất của tiếng Việt.

2. Phương diện thứ hai, từ tiếng Việt có thể chuyển hóa, biến đổi về hình thức cấu tạo. Ở NN hòa kết, sự biến đổi này nhằm thay đổi ý nghĩa ngữ pháp của từ: foot, book (số ít) – feet, books (số nhiều)... Còn với tiếng Việt, sự biến đổi về hình thức cấu tạo không nhằm thay đổi ý nghĩa ngữ pháp của từ, mà chủ yếu để phục vụ cho những mục đích giao tiếp nhất định. Chúng ta có thể biến đổi trật tự sắp xếp các yếu tố trong từ cho phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp; nghĩa là tùy từng trường hợp, có thể có hai vị trí biến thể: đấu tranh – tranh đấu, giữ gìn – gìn giữ, thủy chung – chung thủy, sắt son – son sắt, thông cảm – cảm thông, rì rầm – rầm rì, thay đổi – đổi thay... Điều đó lí giải vì sao khi diễn tả sự nhất quán, bền vững từ đầu đến cuối, Tố Hữu lại viết Thủy chung tình bạn chùm hoa tím. Hay vòng tuần hoàn, lặp lại của dòng thời gian được Nguyễn Du vẽ nên qua việc đảo từ trong câu thơ Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng (Truyện Kiều).


Biến đổi về hình thức cấu tạo của từ còn thể hiện ở việc tách yếu tố ra, xen yếu tố khác vào giữa. “Tính chất nổi tiếng, gây xôn xao” của từ đình đám được nhân lên khi nó được tách ra, chêm xen từ khác nổi đình nổi đám.. Tác giả dân gian cũng đã dựng nên dáng đi vội vã, tất tả, ngược xuôi của một con người bằng việc tách từ láy vội vàng, đan cài thêm yếu tố khác trong câu ca:
Đi đâu mà vội mà vàng.
Mà vấp phải đá mà quàng phải dây.                                                  (Ca dao) Nguyễn Du thật tài tình khi biến đổi linh hoạt hàng loạt thành ngữ bằng cách tách từ đan chéo trong câu thơ Kiều, tạo nên chuỗi đối xứng, đầy ấn tượng:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh ....................................

Mặt sao dày gió dạn sương


Thân sao bướm chán ong chường bấy thân. Nỗi niềm thương thân xót phận của nhân vật nhờ đó được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau (chuyển đổi góc nhìn), đồng thời làm sáng lên nhân cách của Kiều trong cảnh ngộ ấy. Có thể nói, trong những trường hợp như vậy, việc thay đổi hình thức cấu tạo của từ đã phục vụ đắc lực cho mục đích tu từ của tác giả.

Bên cạnh đó, khi cần “co” độ dài của từ, chúng ta có thể rút ngắn hay gộp các từ ghép thành một từ mới. Xu hướng rút gọn thường xuất hiện ở một số từ địa danh (Thanh Hóa – Thanh, Tuyên Quang – Tuyên, Thái Nguyên – Thái, Nghệ An – Nghệ...); từ vay mượn (Italia – Ý, Australia – Úc...); tên sản phẩm nước ngoài (Tetaxilin – Têta, Đôla – đô...). Hay có thể gộp thành các từ ghép: công nông ngư nghiệp, nông lâm ngư nghiệp, Ngữ văn.... Ngoài ra, có những trường hợp, từ không biến đổi nhưng đồng thời tồn tại hai dạng thức. Người sử dụng phải căn cứ vào ý nghĩa, ngữ cảnh để phân biệt.


3. Vận động chuyển hóa của từ tiếng Việt thể hiện rõ nhất ở sự biến đổi về nghĩa. Bởi nghĩa của từ là kết cấu lõi đặc trưng cho từ. Đó là “sự phản ánh rõ ràng của từ với tư cách là mặt bên trong của từ… không phải chỉ để biểu thị và trao đổi với người khác mà còn cần thiết cho sự nảy sinh, sự hình thành, sự tồn tại và sự phát triển của từ” (A.I.Xmirnitxki). Trải qua những thời kì lịch sử khác nhau, cùng với sự phát triển của xã hội, vốn từ tiếng Việt cũng vận động, biến đổi không ngừng. Có những từ ngữ mới, nghĩa mới xuất hiện và có những từ ngữ, nhiều nghĩa bị thu hẹp dần phạm vi sử dụng hoặc biến mất hẳn; cũng có những từ ngữ sau một thời gian dài không được sử dụng nay được dùng lại với sắc thái ý nghĩa mới. Điều này cũng có nghĩa quá trình hoàn thiện một NN không phải chỉ là tăng tiến về kĩ thuật (khả năng biểu hiện) của NN, tức là mặt ngữ pháp hay cơ cấu ngữ âm của NN ấy, mà chính là sự phát triển khả năng biểu hiện những nội dung mới. Trong những năm gần đây, xu hướng tạo ra những từ ngữ mang tính cụ thể, chi tiết, sinh động trong tiếng Việt đang ngày một gia tăng nhằm phản ánh sự phong phú và đa dạng của đời sống xã hội hiện nay. Bởi “Khi một nhu cầu nào đó của xã hội nảy sinh, NN thường mách bảo cho con người một phương tiện NN nào đó có thể được dùng một cách mới mẻ trong lời nói” [6, 22].  Xu  hướng tạo nên các nghĩa mới hoặc sự chuyển nghĩa của từ đáp ứng nhu cầu xã hội, văn hóa. Đồng thời, nó giải quyết mâu thuẫn vốn có trong hệ thống NN (tính  hữu hạn của  các đơn vị NN mâu thuẫn với tính vô hạn của thực tế khách quan phải gọi tên). NN phải tạo ra những đơn vị định danh mới bằng cách lấy vỏ ngữ âm cũ (đã có nghĩa), rồi “thổi” vào đó một lượng nghĩa mới (nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm hoặc nghĩa biểu thái).

Dễ nhận thấy chuyển đổi ý nghĩa của từ dựa trên những yếu tố cũ đã tạo ra nhiều từ mới, nghĩa mới cũng là một hiện tượng ngữ nghĩa đang phát huy tác dụng ở từ vựng nhiều ngành nghề hiện nay (đặc biệt là trong các ngành kinh tế, tin học…). Với sự chuyển nghĩa lâm thời như vậy, từ mở ra những khả năng vô hạn. Chúng ta khó lường trước được từ sẽ còn có những nghĩa nào khác nữa. Có những nghĩa đi rất xa so với nghĩa gốc. Với nguyên nghĩa là “đưa chất lỏng, chất khí từ một nơi này đến một nơi khác bằng bơm” [15, 86], từ bơm hiện nay còn được dùng với nghĩa “hoạt động tiếp thêm tiền trong kinh doanh với khối lượng lớn, ồ ạt trong bơm vốn, bơm tiền”. Từ nghĩa gốc chỉ “người phụ nữ làm vua” [15, 744], ngày nay từ nữ hoàng còn được hiểu là “người phụ nữ đứng đầu trong một lĩnh vực nào đó” (nữ hoàng quần vợt, nữ hoàng giải trí, nữ hoàng may mặc, nữ hoàng truyền hình....), hay “người phụ nữ giữ vị trí cao nhất trong các cuộc thi sắc đẹp, thời trang hay trong điện ảnh” (nữ hoàng sắc đẹp, nữ hoàng du lịch...). Huyền thoại ban đầu chỉ có ý  nghĩa  là “câu chuyện huyền hoặc, kì lạ, hoàn toàn do tưởng tượng” [15, 471], (giống với  thần thoại). Song ngày nay, nó gắn liền những người nổi tiếng, có nhiều cống hiến hoặc ảnh hưởng lớn trong một lĩnh vực nào đó, đặc biệt là trong lĩnh vực giải trí: âm nhạc, thời trang, thể thao (huyền thoại điện ảnh, tay đua huyền thoại, cướp  biển huyền thoại, võ sư huyền thoại…). Hay như bê bối nguyên nghĩa chỉ “tình trạng có nhiều điều rắc rối và xấu xa, khó giải quyết cho êm đẹp được” [15, 56], nay chỉ vụ việc mang tính chất nêu trên: (vụ bê bối).


Từ mò trong câu Nó mò sang phòng bên đã mang sắc thái, nghĩa hoàn toàn khác trong câu Ông lão mò cua.
Cùng với việc tăng thêm nghĩa mới, hiện tượng chuyển nghĩa cũng làm cho nghĩa của từ biến đổi. Đây là một phương thức tạo từ phổ biến trong mọi NN và ở mọi phong cách. Trong đó, có chuyển nghĩa ổn định – kết quả của hoạt động hành chức diễn ra trong lịch sử, mang tính phổ biến và đã được ghi lại trong từ điển như nghĩa chuyển của các từ chân (chân bàn, chân tường....), cổ, tay, mũi, tóc, đánh, chạy,...  Từ mắt vốn chỉ bộ phận cơ thể con người, có thể chuyển sang chỉ bộ phận đồ vật, sự vật: mắt na, mắt dứa, mắt tre, mắt lưới, mắt võng, mắt bão, mắt lá (Buổi trưa lim dim nghìn đôi mắt lá).... Sự chuyển nghĩa đó dựa trên sự giống nhau về hình dáng và mang một chức năng nhất định. Nhưng lại có những chuyển nghĩa lâm thời xảy ra trong HĐHC, mang dấu ấn cá nhân rõ nét. Hiện tượng này phản ánh sự liên tưởng, mở rộng chiều hướng tư duy của con người trong quá trình nhận thức thế giới khách quan. Có cả một mạng lưới tên gọi liên tưởng vây bổ quanh mỗi một tên gọi: một số các nhóm liên tưởng ấy bắt rễ trong sự tương đồng (ẩn dụ); số khác trong sự kế cận (hoán dụ).

Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay (báo chí, phát thanh truyền hình..), chúng ta có thể bắt gặp hiện tượng này trong nhiều từ thuộc lĩnh vực kinh tế, tin học, luật... Khi nói Thị trường tăng trưởng chóng mặt thì chóng mặt vốn chỉ cảm giác lại có nét nghĩa gần gũi với từ chỉ tốc độ phát triển hoặc thay đổi nhanh chóng ở mức độ khác thường. Giới trẻ hiện nay ưa sắm đồ hiệu, chuộng hàng hiệu thì hiệu vốn chỉ cửa hàng nói chung được dùng để chỉ các vật được bán trong đó (quan hệ giữa vật chứa – vật bị chứa). Từ lên khoác những nghĩa mới trong các từ lên lưới, lên đời, lên sàn... Có thể dẫn ra một loạt từ chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ (cổng thông tin, bệ phóng, đà phát triển, vấn đề nhạy cảm, công việc ngon lành...), hoán dụ (chân sút, chân dài, tay lái, cây kéo vàng....)


Đình đám là từ chỉ “hội hè ở nông thôn” [15, 324], nay ẩn dụ cho “sự nổi tiếng, khiến cho dư luận xôn xao”. Đó là chưa kể đến hàng loạt từ, tổ hợp từ như: cơ chế thị trường, mở cửa, đối đầu, đối tác, liên doanh, vốn tự có, nối mạng, bắt sống, chạy sô, đụng hàng, bệnh ngôi sao, vận động hành lang, hành lang pháp, mùa yêu …. không những được dùng phổ biến trong NN giao tiếp hàng ngày, mà còn được dùng với nghĩa bóng, nghĩa chuyển. Như vậy, sự chuyển nghĩa của từ thực chất là mở rộng dung lượng nghĩa hoặc khơi sâu khả năng biểu đạt của từ trước những sự vật, hiện tượng mới xuất hiện trong xã hội. Sự chuyển nghĩa này rất đa dạng, phong phú do kết quả của quá trình nhận thức, liên tưởng, do điểm nhìn của người nói. Thông thường, sự chuyển nghĩa diễn ra đồng loạt ở các từ thuộc một trường nghĩa. Đây là cơ sở hình thành ngành NN học tri nhận. Từ đó, ranh giới giữa chuẩn mực và phi chuẩn mực, đúng và sai là mong manh, cần dựa vào ngữ cảnh để xác định. Sự chuyển nghĩa thường xuyên, liên tục ở nhiều cá thể, nhiều phong cách NN. Ban đầu có thể chỉ giới hạn trong phạm vi cá nhân. Về sau, nó được phổ biến rộng rãi và trở thành nghĩa mới của từ; đặc biệt trong văn chương cần cái mới, sáng tạo, lạ hóa. Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng


                          (Xuân Diệu – Đây mùa thu tới)
Người ta cũng có thể sử dụng các hình vị đồng nghĩa hoặc gần nghĩa, lược bỏ những nét nghĩa riêng biệt của từng hình vị để tạo nên các từ ngữ có ý nghĩa rộng hơn, khái quát hơn: tươi mới (sắc màu tươi mới, hình ảnh tươi mới, cuộc sống tươi mới….), bám đuổi, bọc lót, chặt chém, sốt nóng, hiến tặng, rượt đuổi, đập phá, tụt giảm, đủ đầy, rào cản, hạng mục….. Như thế, rõ ràng nghĩa của từ trong HĐHC mở ra những khả năng vô tận…

4. Thứ tư, trong tiếng Việt, từ có thể biến đổi về từ loại, tức là biến đổi trên bình diện ngữ pháp. Cũng cần thấy bình diện ngữ pháp của từ tiếng Việt không biến đổi nhằm mục đích tạo ra các hình thái ngữ  pháp, diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp (như đối với các NN hòa kết).  Nhưng đơn vị NN này có thể chuyển loại để sử dụng sinh động, uyển chuyển: Danh từ có thể chuyển thành động từ, tính từ; thực từ có thể chuyển thành hư từ và ngược lại. Có hai dạng chuyển loại. Có thể là chuyển loại đã ổn định, diễn ra phổ biến trong toàn xã hội. Ví dụ một loạt các từ chỉ công cụ chuyển sang chỉ hoạt động bằng công cụ đó (cày, bừa, cuốc, đục, cưa, xẻ…); từ chỉ hoạt động chuyển sang chỉ kết quả của hoạt động (nắm – một nắm cơm, bó – một bó lúa, gói – một gói xôi, tát – một cái tát….).


Cùng với chuyển loại đã ổn định, còn có chuyển loại diễn ra trong HĐHC hàng ngày. Khi đó, từ cần có yếu tố phụ (tác tố). Có thể đặt cái trước tính từ để danh từ hóa tính từ (cái đẹp, cái lạ,…), động từ (cái ăn, cái mặc….). Khi đó, ta đã danh hóa tính từ, động từ  bằng cách thêm vào trước đó một yếu tố đã bị hư hóa. Hoặc có thể động từ hóa tính từ hay danh từ bằng cách thêm hóa đằng sau nó. Đây là mô hình có sức sản sinh cao (điện khí hóa, cơ khí hóa, trẻ hóa, lão hóa, nạc hóa, thậm chí gần đây còn xuất hiện từ cống hóa….)
Trường hợp thứ hai, không cần yếu tố phụ nhưng thể hiện qua những khả năng kết hợp khác nhau: Củ chuối là danh từ, song có thể là tính từ trong trường hợp Bộ phim này (rất) củ chuối bằng cách thêm từ kiểm chứng (rất) vào trước nó. Hoặc danh từ kỉ niệm có thể chuyển sang động từ trong câu Tớ kỉ niệm cậu một bức ảnh (vì ta có thể thêm vào trước nó phụ từ thời gian: đã, sẽ…). Thần tượng có thể là danh từ trong tiêu đề một bài báo Minh Thư coi cậu Lam Trường là thần tượng nhưng cũng có thể làm động từ trong câu … Minh Thư đã thần tượng người cậu ruột ca sĩ Lam Trường – đến mức có thể . (Mục Âm nhạc, Báo điện tử VnExpress, 19/04/ 2006).
Tương tự, mới vừa có thể là thực từ, biểu thị thuộc tính chung về hình thức của tất cả  sự vật ngay khi nó chuyển thành đối tượng của người nói hay ngay trước thời điểm mà người nói quy chiếu (chiếc xe mới, quyển sách mới…); vừa  có thể đóng vai trò là hư  từ (tình thái từ) khi nó đánh dấu thời  điểm  trước quy chiếu của sự tình từ đó phát sinh nghĩa khởi phát hay diễn đạt khúc đọa đầu của sự tình, tùy vào bản chất của sự tình và cuối cùng mở ra suy ý về tính chất  thấp (Nó mới cao, giá mới cao), ít (mới  đông), sớm (mới hai giờ),  chậm trễ của sự tình (Làm xong việc nó mới về)… Như vậy, trong HĐHC có những từ ban đầu mang tư cách ngữ pháp của từ loại này được dùng với tư cách ngữ pháp của từ loại khác.

5. Chuyển hóa của từ tiếng Việt trên bình diện phong cách:

Mỗi từ thường được xác định màu sắc phong cách. Có từ đa phong cách, có từ đơn phong cách. Nhưng trong sử dụng có những biến đổi. Chúng ta bắt gặp không ít từ ngữ trong đời sống hàng ngày đi vào văn chương:

Vo ve  mặc mẹ cái ong bầu.

Câu thơ Hồ Xuân Hương trở nên giàu màu sắc thông tục. Tính khẳng định của hành động và mang một sắc thái biểu cảm âm tính nhờ đó được gia tăng. Hơi thở cuộc sống đi vào thơ Hoàng Cầm một cách tự nhiên đến thế có lẽ một phần cũng nhờ cách dùng từ của thi sĩ:

Ú ớ cơn mê thon thót giật mình


                                    (Bên kia sông Đuống) Thơ Nguyễn Duy  lại càng đậm đặc khẩu ngữ:

Xa nhau cực nhớ, cực  thèm

Ai về Hà Nội gửi em đôi nhời .………………………….

Cực kì gốc sấu, bóng me


Cực ngon, cực rẻ, cực nhòe em ơi.
Ngày nay, không ít thuật ngữ chính trị như đổi mới được dùng trong lời nói khẩu ngữ để chỉ tất cả mọi sự thay đổi. Với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện nay, nhiều thuật ngữ tin học có thể được diễn đạt trong nhiều lĩnh vực khác. Phần cứng, phần mềm còn được dùng chỉ phần ổn định, cố định hay phần linh hoạt, có thể tăng, giảm tùy theo điều kiện, trong từng thời kì nhất định.
Cũng có thể dẫn ra hàng loạt từ ngữ thuộc lĩnh vực đời sống được dùng trong lĩnh vực kinh tế: Sự ấm lên của thị trường lao động (Thời báo Khoa học Việt Nam, số 311, 29/12/2009). Cơn lốc giá vàng chưa dừng lại (Vneconomy.vn). Bão giá tại Việt Nam mạnh nhất Đông Á (Dantri.com.vn).
Vàng trượt về sát mốc 26 triệu đồng/ lượng(Vneconomy.vn, 25/3/2010). Giá vàng leo thang; lốc nợ….
Mặt khác, ngành này còn sử dụng nhiều thuật ngữ trong thể thao (bứt phá, lội, chạy đua, bơi, lấn sân,….). Ví dụ: Giảm chi phí gia nhập thị trường, doanh nghiệp còn bơi trong thủ tục hành chính (Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 197, 3/10/2006, tr5). Đồng USD chìm, đồng NDT sẽ thả nổi (vietbao.net). Phao mới cho nhà đầu tư lướt sóng (vietbao.vn).
Chúng ta cũng bắt gặp trong lĩnh vực này số lượng không nhỏ thuật ngữ quân sự (Cuộc chiến thương mại, chiến tranh tiền tệ…..); thuật ngữ khoa học tự nhiên (tiệm cận, đột biến, đòn bẩy…), thậm chí cả thuật ngữ y học (bất an, ốm yếu, sức khỏe…) như: Giá vàng đang bất an. (Infotv.vn). Cơn sốt vàng từng tồn tại trong những năm 80 của thế kỉ trước (vietbao.vn). Chuyên gia khám sức khỏe thị trường tiền tệ Việt Nam… Có thể thấy khi sử dụng NN, do các đơn vị từ vựng tồn tại trong lòng hệ thống (hoặc trong các trường từ) luôn cố định nên chúng thường có tính trung hòa về mặt nghĩa, dễ tạo sự mòn sáo mà trong lời nói luôn luôn muốn biểu thị những cái mới, những cách nói mới để thuyết phục người nghe. Để tạo ra tính chất mới mẻ, hấp dẫn, người ta “lạ hóa” các từ ngữ bằng cách “nhấc” từ ngữ ở trường nghĩa này sang hoạt động ở trường nghĩa khác. Hoàn thiện hệ thống từ vựng là một bộ phận trong quá trình hiện thực NN và là một trong những bộ phận quan trọng  nhất. Nói như R.A.Budagov:  “Từ vựng của NN phát triển dựa trên cơ sở sự mâu thuẫn giữa khả năng phản ánh của nó ở mỗi thời đại và ý nguyện của con người muốn biểu hiện  tư tưởng, tình cảm của mình ngày càng phong phú hơn.”

Như vậy, từ là một đơn vị có số lượng vô cùng lớn. Mỗi từ có một bình diện khác nhau. Trong hệ thống NN, từ tiếng Việt cần phải ổn định để có thể làm phương tiện chung của hàng triệu người. Trong HĐHC, nó lại luôn luôn biến đổi, chuyển hóa. Vận động chuyển hóa của từ tiếng Việt diễn ra trên mọi bình diện (từ ngữ âm, cấu tạo từ, nghĩa, từ loại cho đến phong cách); trong đó, chuyển hóa về mặt nghĩa là rõ nhất. Quá trình này phối hợp với vận động hiện thực hóa, vận động tân tạo của từ (của NN); tạo ra khả năng vô tận để NN đáp ứng nhu cầu là công cụ nhận thức tư duy và là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người. Đó cũng chính là động lực phát triển và hoàn thiện vốn từ vựng tiếng Việt nói riêng, Việt ngữ nói chung.

Video liên quan

Chủ đề