Vương gia là gì của hoàng thượng

Năm 2000 chúng tôi đến Huế, một trong những nội dung của chuyến đi là giải đáp cho được câu hỏi: "Con dâu của nhà Vua thì gọi là gì". Chúng tôi đã thất vọng hoàn toàn khi các hướng dẫn viên du lịch và kể cả hướng dẫn viên tại các khu vực cố đô đều trả lời mỗi người mỗi phách, dù có người cẩn trọng xin khất về tìm hiểu để trả lời vào hôm sau. Đến nay, qua tìm hiểu dù vấn đề chưa thật rõ ràng nhưng có thể hiểu, tên gọi của Hoàng tộc là vô cùng phức tạp, nó tùy thuộc vào từng vương triều, từng quốc gia, thời đại... khác nhau để quy ra một cái danh xưng.

Bạn đang xem: Vương gia là gì

Nội dung chính

Dưới đây chúng tôi xin đăng tải 02 bài nghiên cứu sưu tầm được, hy vọng thỏa mãn phần nào ý khát khao tìm hiểu về một danh xưng Hoàng tộc.

Con dâu của nhà vua thì gọi là gì? Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

Vương gia là gì của hoàng thượng

Phủ thiếp Hoàng Thị Cúc của ông Hoàng Phụng Hoá Công. Về sau ông Hoàng Phụng Hoá trở thành vua Khải Định, bà được phongTam giai HuệPhi,rồi Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, thường gọi là Đức Từ Cung khi con bà, vua Bảo Đại, lên ngôi.

Vợ của một nhà vua được gọi là Hoàng hậu, con trai vua là Hoàng tử, con gái vua là Công chúa, rể vua là Phò mã. Đó là những điều mọi người đều biết. Thế nhưng, con dâu nhà vua thì gọi là gì, lại là một điều làm đa số mọi người thắc mắc.

Đây cũng là việc khá dễ hiểu. Trước đây các triều đại quân chủ phong kiến của ta cũng như Trung Hoa đều có quan niệm trọng nam khinh nữ. Phụ nữ thường sinh hoạt trong nhà, lo công việc nội trợ, sinh nuôi con cái, không được đi học, hầu như họ không đóng một vai trò xã hội gì khiến họ ít được đề cập đến trong sinh hoạt xã hội. Vậy nên ngay cảkhi họ là dâu của nhà vua, gọi họ là gì cũng ít được sách vở đề cập.

Học giả An Chi trong Chuyện Đông, Chuyện Tây tập I đã trả lời bạn đọc như sau:

Con dâu của vua gọi là hoàng tức(皇媳). Hoàng là một thành tố chỉ những gì thuộc về nhà vua, liên quan đến vua. Tức là dạng tắt của tức phụ đã trở nên thông dụng, có nghĩa là con dâu. Con rể của vua vốn được gọi là hoàng tế (皇婿, tế là rể).. Từ đời Nguỵ, đời Tấn, chàng rể được phong làm làm phụ mã đô uý, gọi tắt là phụ mã, âm xưa là phò mã. Đây là một chức quan chuyên trách chuyện ngựa xe cho nhà vua, anh chàng hoàng tế được cái tên phò mã là nhờ ở chức này (tr.50, 51)

Ông An Chi trả lời vậy là hoàn toàn đúng theo mặt ngữ nghĩa. Hoàng tức là tên gọi chung của dâu nhà vua.. Chúng ta còn gặp từ tức này trong thuật Tử vi với cung tử tức nói về con và dâu.

Tuy nhiên, lạ một điều Hán Việt Từ Điển của cụ Đào Duy Anh, Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân,Từ điển từ Hán Việt của Lại Cao Nguyên, Từ điển Trung Việt của NXB Khoa học Xã hội, HN, 1996, Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê đều có từ hoàng tử mà không có từ hoàng tức. Điều này cho chúng ta thấy từ trên được sử dụng không khá thông dụng. Chúng tôi cũng không rõ ở sách báo nào ngày trước có sử dụng từ này.

Nếu xem báo chí và phim ảnh hiện nay, chúng ta hẳn sẽ gặp từ thái tử phi hoặc hoàng tử phi được dùng để chỉ các nàng dâu của nhà vua. Các từ này về mặt ngữ nghĩa cũng hoàn toàn đúng. Theo Hán Việt Tự điển của Thiều Chửu, nghĩa thứ 3 của từ phi: vợ của thái tử và các vương hầu được gọi là vương phi. (tr.126).

Vậy thì triều Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng của nước ta, gọi các nàng dâu đó là gì?Tham khảo một số gia phả hiện đang được lưu giữ tại các phủ, phòng chúng tôi ghi nhận như sau:

a. Theo gia phả của phòng Trấn Tịnh Quận Côngthì như sau:

Hoàng tử thứ 45 Miên Dần đã được vua cha Minh Mệnh ban cho ngân sách (sách làm bằng bạc) vào năm Canh Tý (1840). Ông có 06 bà vợ như sau:

1.Nguyên Cơ huý Hoàng thị .2.Đệ nhất phủ thiếp huý Lê Thị 3.Đệ nhị phủ thiếp huý Nguyễn Văn Thị ..4.Đằng thiếp huý Trần thị 5.Đằng thiếp huý Trần thị ..6.Xuất thiếp huý Trần Thị

b. Theo gia phả của phòng Thuỵ Thái Vươngthì như sau:

Hoàng tử Hồng Y là con Đức vua Thiệu Trị. Ông có 05 bà vợ như sau:

1.Thuỵ Thái Vương Phi Lê Thị . thụy Trang Thục.2. Phủ thiếp Ðệ nhất phòng Trần Thị thụy Đoan Thục.3. Phủ Thiếp Đệ Nhị Cơ Nguyễn Gia Thị . thụy là Trinh Khiết.4. Phủ Thiếp Đệ Tứ Phòng Trưởng Nữ Quan Kỳ Sự Lê Chương Thị đặc phong Nữ Tổng Quản Nghi Nhân thụy là Thục Hiền.5. Phủ Thiếp Đệ Ngũ Phòng Hồ Thị . thụy là Đông Phát.

Xem thêm: Hướng Dẫn Đăng Ký Razer Game Booster Cho Lol, Cách Đăng Ký Razer Game Booster

Gia phả của phòng Tuy Lý Vương, Hoà Thạnh Vương mà chúng tôi xem được cũng dùng từ phủ thiếp như hai phòng trên.

c. Theo Wapedia Wiki: Lễ cưới người Việt, phần 1. 4. Lễ nghi cung đình, có một đoạn như sau:

Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại phong kiến nhìn chung giống với tục cưới gả của Trung Hoa là căn cứ vào sáu bước (lục lễ), có thể rút bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng và xa hoa hơn trong dân gian. Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ chủ trương và theo lối "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Hoàng tử lấy vợ chính gọi là "nạp phi" và "nạp thiếp" khi lấy vợ thứ (khi về nhà chồng, cô dâu được gọi là phủ phi hay phủ thiếp), và công chúa lấy chồng gọi là "hạ giá" (chú rể được phong Phò mã Đô uý).

d. Ở một tư liệu khác là Chuyện các bà trong cung (Maxreading.com) thì ghi như sau:

Bà họ Trương là ái nữ quan đại thần Trương Như Cương được cưới làm phủ thiếp khi vua Khải Định còn là ông Hoàng Phụng Hoá Công ở Tiềm đế (sau xây thành cung An Định).

e. Tác giả Nguyễn Đắc Xuân trong Chuyện nội cung các vua thì viết:

Tiếng lành đồn xa. Khi hoàng tử Đảm con thứ tư của vua Gia Long - đến tuổi lập phủ thiếp, cô (Ngô Thị) Chính được chọn sau cô Hô Thị Hoa, người gốc Gia Định. Bà Hoa sinh ra hoàng tử Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị) năm 1807.. (tr.24) hay Vào cuối đời Minh Mạng, hoàng tử Miên Thẩm được xuất phủ, lập phủ riêng ở phường Liêm Năng (phía đông Lục Bộ trong Kinh Thành) nạp phủ thiếp (lấy bà Trương Thị Thứ, con gái Trương Đăng Quế - người Quảng Ngãi) (tr.46).

Nói tóm lại, từ một số tư liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng dưới triều Nguyễn, dâu của nhà vua được gọi là phủ thiếp (府妾). Bên cạnh đó, nếu phủ thiếp là vợ chính thì còn được gọi là Nguyên Cơ (dẫn theo gia phả phòng Trấn Tĩnh), còn nếu ở thứ bậc thấp hơn phủ thiếp thì gọi là Đằng thiếp (藤妾:vợ thứ) hay Dắng thiếp (媵妾:vợ hầu). Cần chú ý là Nguyên Cơ khác với Nguyên Phi. Nguyên Phi chỉ vợ vua (hay người có tước Vương, như theo gia phả của phòng Thuỵ Thái), ví dụ Nguyên phi Ỷ Lan, vợ của vua Lý Thánh Tông.

Vậy ta hiểu phủ thiếp là gì? Dưới triều Nguyễn, từ này liên hệ đến từ xuất phủ. Theo một bài viết của Lê Quang Thái:

Sách Tùng Thiện Vương (1819 - 1870) do hậu duệ của Thi ông là Ưng Trình và Bửu Dưỡng ấn hành năm 1970 để kỷ niệm 100 ngày mất của ông nội, cố nội mình đã cho người đời có một ý niệm về hình ảnh của phủ đệ:

Theo lệ, các hoàng tử lên 14, 15 tuổi thì phải xuất phủ, nghĩa là phải ra ở ngoài Tử Cấm Thành, biệt lập gia đình như Võ Xuân Cẩn đã tâu, xin ơn cho các hoàng thân, hoàng tử. Tùng Thiện vương xuất phủ ở ngang với phủ Tuy Lý vương, tại phường Liêm Năng trong Kinh Thành, phía đông Lục Bộ

Suy ra, phủ thiếp là vợ (thiếp) của một hoàng tử đã đến tuổi trưởng thành (xuất phủ), có nhà ở và gia đình riêng.

Cách gọi này của riêng triều Nguyễn khác biệt với cách gọi của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Âu cũng là một sáng tạo có ý thức độc lập của tiền nhân chúng ta. Rất mong trao đổi cùng các nhà nghiên cứu khác.

Xem thêm: Gái Một Con Trông Mòn Con Mắt, Hình Ảnh Thật Của Người Phụ Nữ Trong Câu

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

Bài nghiên cứu thứ 2.

Xưng hô trong hoàngtộc

Vương gia là gì của hoàng thượng

I. Cha, mẹ vua

1. Tước hiệu:

*Từ thời Hán mới bắt đầu có các tước hiệu dưới đây. Trước đó chỉ gọi chung là Quốc lão/Quốc mẫu

Bà của vua = Thái hoàng thái hậu

Cha vua (người cha chưa từng làm vua) = Quốc lão

Cha vua (người cha đã từng làm vua rồi truyền ngôi cho con) = Thái thượng hoàng

Mẹ vua (chồng chưa từng làm vua) = Quốc mẫu

Mẹ vua (chồng đã từng làm vua) = Thái hậu

Mẹ kế (phi tử của vua đời trước) = Thái phi

*Theo quy định Hoàng hậu sẽ thành Thái hậu nên trường hợp vua là con phi tần thì mẹ ruột vua chỉ được phong Thái phi

2. Xưng hô khi nói chuyện:

Quốc lão/Thái thượng hoàng: Ta

Thái hoàng thái hậu/Quốc mẫu/Thái hậu: Ai gia/ta/lão thân

*Khi nói chuyện với người dưới cấp thì sẽ gọi thẳng tên hoặc gọi theo tước hiệu

====================

II. Vua

1. Tước hiệu:

Thời Hạ Thương Chu: Vương

Thời Xuân Thu Chiến Quốc:

Vua các nước lớn: Vương (ví dụ: Sở vương, Ngô vương)Vua các nước nhỏ (chư hầu) : Hầu/Công/Bá (ví dụ: Trần hầu, Tề công.)

Thời Tần trở về sau: Hoàng đế

Xem các nghĩa khác tại Vương.

Vương (chữ Hán: 王; tiếng Anh: King hoặc Royal Prince) hay Chúa là xưng vị hay tước vị của chế độ phong kiến Đông Á, đứng đầu một Vương quốc, Thân vương quốc hay dành cho hoàng thân nam giới của Hoàng tộc.

Vương gia là gì của hoàng thượng
Thứ bậc Hoàng tộc, Quý tộc và Hiệp sĩHoàng đế & Hoàng hậu
Nữ hoàng & Hoàng tếThái hoàng thái hậu
Hoàng thái hậu / Thái thượng hoàng hậu
Hoàng thái phi & Thái thượng hoàng
Thái hậu / Thái phiVương thái hậu / Vương đại phiQuốc vương & Vương hậu
Nữ vương & Vương phuHoàng tử & Hoàng tử phiThái tử & Thái tử phi
Thế tử & Thế tử tần
Công chúa & Phò mãĐại Thân vương & Đại Vương phi
Đại Công tước & Đại Công tước phu nhânThân vương & Vương phi
Phó vương & Phó vương phiQuận chúa & Quận mã
Huyện chúa & Huyện mãCông tước & Công tước phu nhânHầu tước & Hầu tước phu nhânBá tước & Bá tước phu nhânTử tước & Tử tước phu nhânNam tước & Nam tước phu nhânHiệp sĩ & Nữ Tước sĩ
  • xem
  • thảo luận
  • sửa

Tước vị này dùng cho chế độ tước vị của nam giới tại các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Tại Châu Âu, cả King và Prince đều tương đương với Vương ở chuyển nghĩa ngôn ngữ Đông Á, dù thực chất địa vị của hai tước hiệu này về cơ bản là khác nhau hoàn toàn.

Tùy giai đoạn hoặc quốc gia, tước Vương có thể có nhiều ý nghĩa, nhưng nhìn chung ở Đông Á thì thông dụng nhất là:

  • Quốc vương (國王), dành cho các người cai trị Vương quốc độc lập hay chư hầu.
  • Thân vương (親王), dành cho các Hoàng tử, có đất phong cấp phủ trong phạm vi Đế quốc.
  • Quận vương (郡王), dành cho các Hoàng tử, có đất phong cấp quận trong phạm vi Đế quốc.

Tước hiệu Vương thường được dùng chuyển ngữ tương đương cho nhiều tước hiệu khác nhau trong các ngôn ngữ châu Âu. Khi chuyển ngữ tương đương cho các tước hiệu trong tiếng Anh, thuật ngữ "Quốc vương" dùng chuyển ngữ cho tước hiệu King, "Thân vương" cho Prince, và ở mức độ hiếm hơn, "Quận vương" cho Count (tương đương Bá tước). Tuy nhiên, cách chuyển ngữ này không phản ánh chính xác hoàn toàn mối tương quan giữa các tước hiệu này. Trong hầu hết ngôn ngữ châu Âu, các tước hiệu tương đương King và Prince trong tiếng Anh đều có thể chỉ đến những vị quân chủ cai trị lãnh thổ độc lập với nhau. Ngoài ra, cũng tồn tại một ngữ cảnh khác khi thuật ngữ Prince còn có thể dùng để chỉ các hậu duệ nam trực hệ (con và cháu nội) của các vị quân chủ mang tước hiệu Hoàng đế (Emperor), Quốc vương (King) hoặc Đại công tước (Grand duke) và Công tước (Duke). Điều này có thể gây nhầm lẫn trong việc chuyển ngữ thuật ngữ Prince của một số tài liệu Việt ngữ, khi không phân biệt được ngữ cảnh sự khác biệt giữa tước hiệu (Thân vương) với danh vị (Hoàng tử, Vương tử, Công tử). Ví dụ như "Prince Dorgon" được chuyển ngữ từ "Hoàng tử Đa Nhĩ Cổn", nhưng nếu "Dorgon, Prince Rui" thì được chuyển ngữ từ "Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn".

Ở một mặt ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, Vương cũng có thể ám chỉ Basileus của nhà nước Hy Lạp cổ, Malik của ngữ tộc Semit, Pharaoh của Ai Cập cổ đại hay Padishah của Ba Tư với tư cách là quân chủ độc lập. Ngoài ra với tư cách là thành viên hoàng gia/vương thất thì có Sheikh và Emir của tiếng Ả Rập, Şehzade của Đế quốc Ottoman, Shahzadeh của Iran cùng Mirza của nhà nước Ấn Độ Hồi giáo.

Vương là xưng vị cao nhất của các vị Thiên tử Trung Hoa kể từ đời nhà Thương cho đến trước thời Tần Thủy Hoàng.

Trước đời nhà Thương, các vị thiên tử Trung Hoa được gọi là Hoàng (皇) hoặc Đế (帝). Khi Thiên tử còn sống thì gọi là Hậu (后), khi qua đời thì gọi là "Đế", từ giữa nhà Thương thì đặt tôn xưng Vương. Các Thiên tử nhà Chu đều xưng là Vương, kể cả khi còn sống hay đã qua đời, do đó trong thời kỳ ấy không có ["tước Vương"], vì đó ám chỉ Thiên tử rồi.

Nhưng khi nhà Chu suy yếu ở thời Đông Chu, các chư hầu vốn chỉ cao nhất là Công tước, nay cũng tự thấy vị thế của mình không đáng phải thần phục nhà Chu nữa mà bắt đầu xưng Vương, sớm nhất trong số đó là Sở Vũ vương. Điều này dựa trên việc khi này nước Sở đã làm chủ phương Nam, quốc lực cường thịnh, có thể thấy mình ngang với Thiên tử mà xưng làm Vương, nhưng vị hiệu [Vương] này của các Vua Sở cũng chỉ là tự xưng chứ không phải thụ phong, và triều đình nhà Chu cùng những thế lực chống phá nước Sở không công nhận việc tự xưng này. Khi Đông Chu bắt đầu đi vào giai đoạn giữa, không chỉ Sở mà đến nước Tần cũng xưng Vương, đến thời Chiến Quốc thì cả 7 nước chư hầu lớn đều xưng Vương.

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, do ông thấy tước Vương đã không còn đủ tôn quý dành cho Thiên tử, nên quyết định lập tước vị Hoàng đế, thì Vương trở thành danh hiệu cao thứ hai, dùng để phân phong cho các Hoàng tử được ban đất phong, đây là mô phỏng theo chế độ chư hầu của nhà Chu.

Như một hoàng thân hoặc chư hầu

Thời Tào Ngụy và Tây Tấn, triều đình Trung Hoa bắt đầu hình thành hai cấp tước Vương; lớn nhất là phong hiệu một chữ ["Nhất tự vương"; 一字王], tức lấy tiểu quốc mà cấp làm đất phong, cũng gọi Thân vương (親王). Loại thứ hai là phong hiệu hai chữ của quận, huyện làm đất phong, tức ["Nhị tự Vương"; 二字王], cũng gọi Quận vương (郡王). Tước Quận vương khi ấy dùng cho con cháu kế tự của Thân vương, hoặc cũng dùng để phong cho công thần. Mô thức này kéo dài đến hết nhà Minh. Sang thời nhà Thanh, các tên hiệu của tước Vương đa phần chỉ còn mà mỹ hiệu mà không phải địa danh, tương tự Công chúa.

Các triều đại sau dùng tước Vương trong rất nhiều trường hợp, tỉ mỉ như sau:

  1. Phong cho các Hoàng tử, dù người này có thể có đất đai cụ thể với tư cách là chư hầu; hoặc chỉ là chức danh Vương trên danh nghĩa và hưởng chế độ bổng lộc chứ không có ấp phong thực địa riêng. Theo đầu thời nhà Hán, di huấn của Hán Cao Tổ Lưu Bang có nói rõ, không phải họ Lưu thì không phong Vương.
  2. Phong cho quyền thần khác họ. Nhiều trong số những người khác họ với hoàng tộc được ban tước Vương do tác động, đòi hỏi của chính họ với vai trò quyền thần và Hoàng đế phải làm theo đề nghị phong vương của họ, dù không mong muốn như vậy. Trường hợp điển hình của các quyền thần ép vua phong Vương là Tào Tháo ép Hán Hiến Đế phong mình làm "Ngụy vương", từ đó cũng tạo ra tiền đề quyền thần có tước Vương dù không phải người trong hoàng thất. Tiếp theo đó, Tư Mã Chiêu ép Ngụy Nguyên Đế phong mình làm "Tấn vương", Lưu Dụ ép Tấn An Đế phong làm "Tống vương"...
  3. Phong cho công thần khác họ. Hầu hết các trường hợp quyền thần sau khi được phong Vương đều đã cướp ngôi Hoàng đế hoặc để tránh mang tiếng đã để lại việc cướp ngôi đến đời con mới thực hiện. Một số trường hợp ít hơn là các công thần được vua ban cho ân sủng nhờ công lao lớn đối với triều đình, điển hình nhất trong lịch sử Trung Quốc là Quách Tử Nghi được Hoàng đế nhà Đường ân phong là "Phần Dương vương" vì có công dẹp loạn An Sử.
  4. Trong một số trường hợp khác, việc ban tước Vương của hoàng đế Trung Hoa nhằm đổi lấy hòa bình, hạn chế sự chống đối của các lực lượng cát cứ. Điển hình là trường hợp tướng Sử Tư Minh dưới quyền An Lộc Sơn làm phản nhà Đường, sau đó mang 10 vạn quân và 13 quận Hà Bắc rộng lớn về hàng. Nhà Đường phong cho Tư Minh làm "Quy Nghĩa vương" để vỗ về.
  5. Tước hiệu Hoàng đế Trung Quốc ban cho các quân chủ nước chư hầu xung quanh mà Trung Quốc không thể xâm chiếm để trực tiếp cai trị như với các quận, huyện tại nước mình, hay thời Trung Quốc chia thành nhiều nước trong đó có nước lớn và nước nhỏ mà nước lớn không thể xâm chiếm lãnh thổ nước nhỏ đó (như trường hợp thời Tam quốc Ngụy Đế Tào Phi phong cho Tôn Quyền làm "Ngô vương" là nước nhỏ hơn nhưng không thể xâm chiếm). Một số trường hợp khác là Hoàng đế Trung Quốc phong cho các Hoàng đế Việt Nam làm "Giao Chỉ quận vương" (交阯郡王) hay "An Nam quốc vương" (安南國王) - một cách thừa nhận độc lập trên thực tế, lệ thuộc trên danh nghĩa.

Đặc biệt, trong lịch sử Trung Hoa có một tước vị cao hơn Vương nhưng thấp hơn Hoàng Đế. Tước vị này chỉ phong cho con cháu của Khổng Tử, gọi là Diễn Thánh Công (衍聖公). Vào thời Thanh, địa vị của Diễn Thánh Công lên đến tột đỉnh. Xa giá của Diễn Thánh Công có thể đi thẳng qua cổng chính Ngọ Môn, nơi chỉ dành riêng cho Hoàng Đế.

Trong lịch sử Việt Nam, Vương là xưng hiệu của Thiên tử Việt Nam, sau đó khi thế nước mạnh lên, các Thiên tử xưng Hoàng đế để tỏ ra ngang hàng với Trung Hoa thì Vương không còn là tước cao nhất.

Các quân chủ xưng Vương:

  • Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ.
  • Hùng Vương - theo truyền thuyết là thế tập 18 đời, cai trị quốc gia Văn Lang.
  • An Dương Vương - theo truyền thuyết là người đã đánh bại các Hùng Vương, thành lập nhà nước Âu Lạc.
  • Trưng Nữ Vương - đánh bại Thái thú nhà Hán là Tô Định, sau bị Phục Ba tướng quân Mã Viện càn quét.
  • Triệu Việt Vương - được Lý Nam Đế trao quyền kế tục nhưng để tỏ ra khiêm nhường, tôn trọng Lý Đế nên chỉ xưng Vương chứ không xưng Đế.
  • Ngô vương Quyền - tức Ngô Quyền, người đã đánh bại đội quân của Nam Hán, bắt đầu thời kỳ Giao Châu tách ra khỏi Trung Nguyên.
  • Dương Bình Vương - xen giữa vương triều họ Ngô của Ngô Quyền.
  • Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn - con cháu Ngô Quyền, đều xưng Vương và cùng tại vị.

Trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, để tránh xung đột không cần thiết vì các triều đại Trung Quốc quan niệm thế giới chỉ có một Hoàng đế (xem bài Thiên tử và Thiên mệnh); các Hoàng đế Việt Nam thường tiếp nhận và sử dụng danh hiệu [An Nam quốc vương; 安南國王] do triều đình Trung Quốc ban phong để quan hệ ngoại giao với họ.

Khi xưng là Hoàng đế, thì "Vương" là một tước hiệu cho thành viên hoàng thất. Các trường hợp phong vương áp dụng trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự như trong lịch sử Trung Quốc:

  1. Vương có thể là tước phong cho Hoàng tử, tước phong cho công thần hoàng tộc. Những người này có thể có thực ấp hoặc chỉ có danh vị không, tùy vào tình thế thời đại và quy chế lúc bấy giờ. Các vị Vương của nhà Triệu[1], nhà Lý và nhà Trần đều có thực ấp, đất phong và lực lượng riêng để gây dựng cơ nghiệp, lúc này Vương cũng như các chư hầu thời nhà Chu và nhà Hán, như một tiểu quân chủ. Đến khi Hậu Lê phục quốc, đều áp dụng chính sách bổng lộc, hạn chế đất phong và binh quyền, tước Vương khi ấy chỉ là danh vị cao quý mà không còn như một tiểu quân chủ nữa. Tên hiệu của tước Vương thời Lý-Trần đa phần là mỹ hiệu, rồi nhóm các đất phong lại làm thực ấp riêng.
  2. Đời nhà Trần thêm quy chế đặc biệt, theo đó, các tước Vương vào làm Tể tướng đều xưng là "Công" (公), chỉ có Thân vương thì được phục lại tước "Vương".
  3. Theo quan chế nhà Lê sơ, tước Vương chỉ phong cho Hoàng tử hoặc con cả của Hoàng tử đó. Hoàng tử được phong lấy 1 chữ trong tên phủ làm hiệu, ví như Thân vương ở phủ Kiến Hưng thì được gọi là "Kiến vương". Con cả của Thân vương, tức là "Tự Thân vương" (嗣親王) thì được phong thì lấy toàn bộ tên huyện làm hiệu; ví như Tự Thân vương ở huyện Hải Lăng thì gọi là "Hải Lăng vương".
  4. Thời nhà Nguyễn, Vương là tước vị cao nhất trong 20 bậc tôn tước phong cho hoàng tộc, và chỉ khi có công trạng mới được phong, gồm các bậc "Thân vương" và "Quận vương". Bình thường kể cả các Hoàng tử đều chỉ phong Công tước với nhiều cấp bậc, như Thân công (親公), Quốc công (國公) và Quận công (郡公). Cũng như triều Lê, tên của Vương, công triều Nguyễn cũng đều là tên địa danh, cao nhất là phủ rồi huyện. Ví dụ như Thọ Xuân Vương Miên Định, phong hiệu "Thọ Xuân" là tên huyện.
  5. Phong Vương nhằm biểu dương công thần. Như trường hợp năm Ất Mùi (1175), Lý Anh Tông dị mệnh ban Tô Hiến Thành quyền Nhiếp chính quốc sự, gia thêm tước Vương[2]. Hay như năm Giáp Ngọ (1234), Trần Thái Tông gia phong Thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu là "Hưng Nhân vương". Hay như cuối thời Lê sơ, Mạc Đăng Dung chủ động tạm lui về quê nhà Cổ Trai thuộc xứ Đông khi đang ở đỉnh cao quyền lực (giai đoạn 1525-1527) để quan sát tình hình và tránh những lời gièm pha chuyên quyền sau khi liên tục được vua nhà Lê gia tăng chức tước bởi công lao dẹp loạn, giữ ổn định chính sự trong nhiều năm. Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích.
  6. Trường hợp lấy lòng người cát cứ để tránh chiến tranh, điển hình trong lịch sử Việt Nam là việc dùng tước Vương phong cho tản quan[3]. Như vào năm Mậu Tý (1228), Trần Thái Tông đã gia phong cho sứ quân Nguyễn Nộn làm "Hoài Đạo Hiếu Vũ vương".

Trong đa số trường hợp khác, phong Vương cho người ngoài hoàng tộc là việc làm bị quyền thần bắt buộc của Hoàng đế. Đòi phong Vương để chuẩn bị cướp ngôi như Hồ Quý Ly; hoặc ngại tránh mang tiếng cướp ngôi thì làm tước thế tập nhiều đời như các chúa Trịnh. Việc xưng Vương của các chúa Nguyễn vốn không phải là được phong mà thực chất là lặp lại quá trình thăng tiến dần đến đích của một vùng lãnh thổ trở thành quốc gia độc lập tại Nam Hà, dù trên danh nghĩa người đứng đầu nó vẫn là thần tử nhà Lê.

Theo giai thoại dân gian Việt Nam, vào thời Nguyễn, đã từng có một câu đối được đưa ra có liên quan đến chữ Vương, câu đối do một người Pháp đưa ra: 'Vương là vua, rút ruột vua phân chia ba đoạn". Giải nghĩa là: chữ Vương (viết bằng chữ Hán: 王) nếu bỏ gạch ở chính giữa sẽ thành chữ Tam (三) và có nghĩa là ba (3). Ý của người ra vế đối là có ý chê vua không có tài, để cho đất nước bị chia cắt làm ba miền. Và câu đối này đã được một nho sinh Việt Nam đối lại khá chỉnh: "Tây là tây, chặt đầu tây phanh thây bốn mảnh", trong đó Tây viết bằng chữ Hán là 西, bỏ đầu thì thành 四, tức là tứ (4).[cần dẫn nguồn] Còn có một câu đối Việt Nam khác nữa là "Dầu vương cả đế".[cần dẫn nguồn]

 

Vương miện Thánh Edward, dùng cho một vị King hay Queen của Anh.

Tước hiệu [Vương] ở tiếng Anh có thể dịch thành [King], tương đương "Quốc vương" lẫn [Prince], tương đương với "Thân vương", cả hai đều là tước hiệu của một vị Vua nói chung của thể chế Châu Âu, trong đó [Prince] lại thiên về những người con của Vua, tức kiểu gọi Hoàng tử, Vương tử nếu nói theo ngôn ngữ Đông Á.

Danh vị [King] biểu thị quân chủ của một Vương quốc, và trái với Prince, thì King luôn luôn biểu thị một quân chủ nhất định và không bao giờ biểu thị vị thế "con của Vua" như Prince thường biểu thị. Danh xưng này bắt nguồn từ [cyning] của tiếng Anh cổ thời Anglo-Saxon, được dịch lại và chuyển ngữ để tương đương với Rex của tiếng Latinh. Sau sự tan rã của Đế chế Byzantine, Châu Âu rơi vào sự hình thành [Những chính quyền Vương quốc man di; Barbarian kingdoms], rồi hình thành nên Đế chế Carolingian của người Frank cùng Vương quốc Anh của người Anglo-Saxon. Sự tan rã của Carolingian tiếp tục dẫn đến những nền quân chủ phong kiến khi chia chác lãnh thổ cố định bởi các chư hầu hoặc thế lực địa phương, hình thành nên Vương quốc Pháp ở Trung Âu, một trong những Kingdom hùng mạnh nhất lịch sử. Và đến thời kỳ cận đại, Châu Âu đã hình thành những [Kingdom] có ảnh hưởng toàn lịch sử, ngoài Anh và Pháp còn có Bồ Đào Nha, Castilla và Aragon của bán đảo Iberia; Sicily, Sardinia và Serbia ở Nam Châu Âu, và Hungary, Ba Lan, Bohemia, Thụy Điển, Đan Mạch, ... ở phía Đông và Bắc Âu.

Sự hình thành nhà nước Châu Âu thường đi theo là các chính phủ như Nghị viện, dẫn đến ở một vài trường hợp thì một vị King có thể cai quản nhiều hơn một Vương quốc. Điển hình là nhà Stuart trước khi hợp nhất năm 1707, đã quản cả 3 vương quốc là Anh, Scotland cùng Ireland. Và tuy King cũng thường xem là "một bậc thấp hơn" nếu so với [Emperor], tương tự Chư hầu Vương so với Hoàng đế ở Đông Á, song sự tự chủ và quyền hạn của một King vẫn rất lớn mạnh và đủ khả năng đối chọi với một Emperor, điển hình là việc Vương quốc Pháp luôn cạnh tranh với Thánh chế La Mã.

Như một Prince

 

Mũ miện của một Prince tại Anh.

Còn danh xưng [Prince] là một từ được lấy từ tiếng Latinh là [princeps], có nghĩa là "bậc đứng đầu tất cả, chúa tể và người cai trị"[4]. Từ này được dùng để chỉ các lãnh đạo của Viện nguyên lão La Mã, tức Princeps senatus. Tại các nước nói tiếng Anh, sự nổi tiếng nhất về tước hiệu này chính là ám chỉ Prince of Wales, tước vị dành cho một Trữ quân theo truyền thống của nước Anh, vị Prince này cai trị Thân vương quốc Wales, một quốc gia nằm ở rìa Tây của Anh, nói tiếng Wales và nằm trong quyền sở hữu lãnh địa của Vương quốc Anh.

Sau đó, Prince trở thành một loại tước hiệu thường là cao nhất trong hệ thống tước phong của một Vương quốc, hoặc là một người thủ lĩnh của một Thân vương quốc. Từ thời kỳ Đế quốc Byzantine, các Prince sở hữu những lãnh địa tự chủ riêng nhưng nằm trong một khối Đế quốc Hoàng quyền thống nhất (giống tình trạng Chư hầu Vương của các triều đại Đông Á), đến trước thế kỉ 13 thì ngay cả một lãnh chúa cũng có thể tự xưng Prince để biểu thị quyền uy chỉ dưới Hoàng đế (Emperor) và Quốc vương (King). Sau thời Trung Cổ đến trước Cách mạng công nghiệp diễn ra, khắp Châu Âu có gần 200 xứ sở mà Prince trị vì với tư cách là một vị vua, nằm rải rác chủ yếu ở Ý và Đức.

Suốt thời kỳ này, Prince gần như là một từ nghe hoành tráng hơn monarch để chỉ vua chúa nói chung, mà không kể tước hiệu cụ thể của vị vua chúa ấy là gì, điều này có thể chứng minh qua cuốn [Il Principe] của Niccolò Machiavelli[5].

Trước năm 1714, các Vương tử và Vương nữ - con trai và con gái của quân chủ Anh không có bất kỳ danh xưng cụ thể nào trừ tước hiệu mà mình được tấn phong, và Prince duy nhất vào thời điểm ấy được biết đến là Thân vương xứ Wales. Cách dùng Prince và Princess trong thời kỳ này chỉ là một cách xác định ví von biểu thị địa vị của Vương tử hoặc Vương nữ ấy, đó vẫn không phải là tước xưng chính thức. Sau khi Quốc vương George I của nhà Hanover lên ngôi, vương thất Anh bắt đầu dùng "Prince" để ám chỉ các con trai cùng cháu trai của quân chủ đang trị vì, do vậy có thể thấy từ thời kỳ này trở đi, cho dù là tước phong quý tộc Công tước hay Hầu tước, Bá tước thì các Vương tử hoặc Vương tôn đều có tước xưng Prince ngay trước tên thánh của mình. Kèm theo đó, họ có được dùng kính ngữ His Royal Highness (gọi tắt là HRH).

Dưới sự ảnh hưởng của tiếng Anh cùng sự lan tỏa của Vương thất Anh dưới thời Nữ vương Victoria và Quốc vương Christian IX, cách dùng Prince ám chỉ Vương tử, Hoàng tử và Princess ám chỉ công chúa ngày càng phổ biến. Về ý nghĩa thực sự, cũng như Infante của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tước xưng Prince có sự phức tạp đáng kể, do vậy cách tốt nhất vẫn là xem xét vai vế mà dịch thuật, hoặc là giữ nguyên như tước hiệu Infante vậy. Ví dụ Prince Philip, Công tước xứ Edinburgh - chồng của Nữ vương Elizabeth II, ông được gọi là [HRH The Prince Philip, Duke of Edinburgh],[6] nhưng không thể dịch thành "Vương tử", mà thường là "Vương phu" hoặc phổ biến là "Vương tế/ Hoàng tế". Trong khi đó, Prince George xứ Cambridge - cháu Đích tằng tôn của Nữ vương, được gọi là [HRH Prince George of Cambridge], cũng không thể dịch thành "Hoàng tử" hay "Vương tử" theo nghĩa thông thường do George không phải là con của quân chủ, mà là cháu cố của quân chủ (tức "Vương tằng tôn"). Vì vậy, trong các tài liệu Việt ngữ thường dùng chung danh xưng Hoàng thân cho các trường hợp tước xưng là Prince và danh xưng Thân vương cho các trường hợp tước vị là Prince.

  • Vương thất Anh
  • Vương tử Anh
  • Phong tước
  • Hoàng đế
  • Công tước
  • Hầu tước
  • Tước hiệu quý tộc Âu châu

  1. ^ bao gồm Tây Vu Vương và Thương Ngô Vương
  2. ^ Đại Việt sử ký toàn thư - "Lý Anh Tông hoàng đế bản kỷ": Ất Mùi, [Thiên Cảm Chí Bảo] năm thứ 2 [1175], (Tống Thuần Hy năm thứ 2). mùa xân, tháng giêng, sách lập long Trát làm Hoàng thái tử, ở Đông cung. Bái Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu Thái phó, Bình chương quân quốc trọng sự, tước Vương, giúp đỡ Đông cung.
  3. ^ Tản quan là quan chỉ có hàm, không có chức
  4. ^ Cassell's Latin Dictionary, ed. Marchant & Charles, 260th thousand
  5. ^ "Fürst - Origins and cognates of the title", 2006, webpage: EFest-Frst Lưu trữ 2011-08-28 tại Wayback Machine.
  6. ^ "No. 41009"”. The London Gazette. 22 tháng 2 năm 1957.

  • Từ điển chức quan Việt Nam, tác giả Đỗ Văn Ninh, Nhà xuất bản Thanh niên, xuất bản năm 2006

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vương_tước&oldid=68402671”