Bài soạn ngữ văn 7 quan âm thị kính năm 2024

I/. Tìm hiểu chung:

1. Chèo là gì?

Là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích = h/thức sân khấu, được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ. Chèo thường được diễn ở sân đình nên gọi là chèo sân đình. - Chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện để khuyến giáo đạo đức, kết hợp chặt chẽ giữa cái bi và cái hài.

- Chèo có một số loại nhân vật truyền thống với những đặc trưng tính cách riêng.

- Sân khấu chèo có tính ước lệ và cách điệu cao. Điều này thể hiện rõ nhất ở nghệ thuật hoá trang nghệ thuật hát và múa. 2. Tóm tắt vở chèo “QÂTK”: - T/Kính hiền thục bị vu oan giết chồng, nàng bị đuổi về nhà mẹ đẻ.

- T/Kính giả trai lên chùa tu hành, lại bị Thị Mầu vu oan, nàng bị đuổi ra khỏi chùa.

- 3 năm liền Kính Tâm (T/Kính) đi xin sữa nuôi con Thị Mầu. Nàng được giải oan, hóa thành Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát.

- Vở chèo mang tích Phật (tích Quan Âm).

3. Văn bản “Nỗi oan hại chồng”: a.V/trí v/bản: thuộc phần 1 của vở chèo quan âm thị kính

  1. Đọc v/bản – hiểu chú thích:
  2. Bố cục: 3 phần

    - P1: Từ đầu à “…một mực” => cảnh g/đình đầm ấm.

    - P2: TT à “… về cùng cha con ơi!” => Thị Kính bị oan.

    - P3: còn lại => Thị Kính ra đi. ® Năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, S.ông, S. bà, M. ông.

    + N/vật chính: Thị Kính và Sùng bà.

    - Thị Kính thuộc loại nhân vật “nữ chính” (đức hạnh nết na), đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường.

    - Sùng bà : thuộc loại nhân vật “mụ ác” (tàn nhẫn, độc địa) đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến. II/. Đọc – hiểu v/bản:

    1. Cảnh sinh hoạt g/đình: - Là cảnh sinh hoạt ấm cúng : chồng dùi mài kinh sử, vợ ngồi cạnh may vá, thêu thùa. Chồng thiu thiu ngủ, vợ ngồi quạt cho chồng. Cảnh này tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh “chồng cày vợ cấy”, nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của nhân dân. - Dọn kỉ rồi ngồi quạt cho chồng

    - Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an \=> cắt chiếc râu mọc ngược của Thiện Sĩ. * Trong khung cảnh ấy, nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối với chồng rất ân cần, dịu dàng : khi chồng ngủ dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng ; thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng thì băn khoăn lo lắng về sự hình chẳng lành. Tình cảm của Thị Kính đối với chồng rất chân thật, tự nhiên. 2. Cảnh Thị Kính bị oan:

  3. Sùng bà:

    - Hành động: tàn nhẫn, thô bạo + Dúi đầu Thị Kính ngã xuống.

    + Bắt Thị Kính ngửa mặt lên.

    + Không cho Thị Kính phân bua

    + Dúi tay Thị Kính ngã khuỵ xuống - Ngôn ngữ: Miệt thị, khinh bỉ, p/biệt đối xử - Tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ. (tội lẳng lơ)

    - Cái con mặt sứa gan lim này ! Mày định giết con bà à ?

    - Này con kia ! Mày có trót say hoa đắm nguyệt. Đã trên dâu dưới bộc hẹn hò. (tội ngoại tình)

    - Chém bổ, băm vằm xả xích mặt!

    Gai say lập chí giết chồng ? (giết chồng)

    - Phi mặt gái trơ như mặt thớt !

    - Này con kia ! Tam tòng tứ đức mày để ở đâu hử ?

    - Đồng nát thì về Câu Nôm. Gái nỏ mồm thì về với cha. (tội lắm điều)

    * Lí do sâu xa hơn: Mối q/hệ g/cấp.

    - Sự không môn đăng hộ đối trong hôn nhân.

    - Tư tưởng khinh rẻ người nghèo

    à Thể hiện ngay trong ngôn ngữ bởi lời lẽ của mụ.

    + Giống bà đây… phượng… công à …mèo mả gà đồng

    + Nhà bà đây cao môn lệnh tộc à .. con nhà cua ốc

    + Trứng rồng lại nở ra rồng.

    Liu điu lại nở ra dòng liu điu

    ® Đay nghiến, mắng nhiếc tàn nhẫn chua ngoa, hợm của, khoe dòng giống.
  4. Thị Kính:

    - Lời nói: Kêu oan. \=> 5 lần – 4 lần hướng về mẹ chồng và chồng; lần cuối cùng với cha ruột.

    - Lần 1 : Với em chồng. Giời ơi! Mẹ ơi oan cho con lắm mẽ ơi !

    - Lần 2 : Vẫn với mẹ chồng :”Oan cho con lắm mẹ ơi !”

    - Lần 3 : Với chồng : “Oan thiếp lắm chàng ơi!”

    - Lần 4 : 1 lần nữa kêu oan với mẹ chồng : “Mẹ xét tình cho con, oan cho con lắm mẹ ơi!”

    - Lần 5 : Với cha (Mãng Ông) : “Cha ơi ! Oan cho con lắm cha ơi”.

    ® Chỉ đến lần cuối cùng – thứ 5 – kêu oan với cha (Mãng ông) Thị Kính mới nhận được sự cảm thông. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Dù biết con oan nhưng Không biết làm sao để gột rửa cho con. - Cử chỉ: - Vật vã khóc

    - Ngửa mặt rũ rượi

    - Chạy theo van xin - Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn dựng lên một vở kịch tàn ác. lừa Mãng ông sang ăn cử cháu, kì thực là bắt Mãng ông sang nhận con về. Chúng có thú vui làm điều tàn ác, làm cho cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào trong nhà.

    - Đây là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất : Thị Kính bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi oan ức : nỗi tình vợ chồng tan vỡ, giờ lại thêm nỗi đau trước cảnh cha già thân yêu, người mà bấy lâu Thị Kính mong được báo đền công dưỡng dục, bị chính cha chồng khinh khi hành hạ.

    ® Cử chỉ Thị Kính dẫn cha đi một quãng … Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại thở than, +… quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay. ® Bởi đó là bằng chứng của tình vợ thủy chung, hiền dịu 3. Cảnh Thị Kính ra đi + Nàng bóp chặt chiếc áo trong tay : thể hiện nỗi đau câm lặng, quặn thắt. Tất cả bằng những bằng chứng về sự thuỷ chung kia giờ đây đã bị coi như dấu vết của sự thất tiết. Một sự đảo lộn đột ngột, ghê gớm.

    (Bấy lâu – bỗng, sắt cầm tịnh hảo – chăn gối lẻ loi)

    ® là những từ ngữ, hình ảnh đối lập :

    bấy lâu >< bỗng, sắt cầm tịnh hảo >< chăn gối lẻ loi - Thị Kính muốn quên đi nỗi đau và tỏ rõ mình là người đoan chính.

    + Trong sự đau khổ, bất lực con đường giải thoát của Thị Kính có 2 mặt. Mặt tích cực là ước muốn sống ở đời để tỏ rõ con người đoan chính. Mặt tiêu cực thì cho rằng mình khổ do số kiếp, do “phận hẩm duyên ôi”, tìm vào cửa phật để tu tâm