Bài tập lớn học kỳ luật dân sự năm 2024

- Nghiên cứu Trường hợp đại diện hợp lệ và Trường hợp đại diện không hợp lệ. - Tổng hợp kết quả nghiên cứu của các thành viên. - Thảo luận chung các vấn đề của bài tập. - Nghiên cứu

4

Trương Thị Quế Trân

5

Nguyễn Quảng Phương Uyên

6

Phạm Thị Quỳnh Trang

- Nghiên cứu Hình thức sở hữu tài sản và Diện thừa kế - Thảo luận chung các vấn đề của bài tập

195 380101 3237 195 380101 3262 195 380101 3241

2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT Bộ luật dân sự Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

BLDS Quyết định 377

3

1. Nghiên cứu 1  Tóm tắt Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/03/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Nguyên đơn là Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel khởi kiện bị đơn là Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên về thanh toán bồi thường hợp đồng mua bán thép. Công ty Vinausteel cho rằng Công ty kim khí Hưng Yên đã vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường. Còn Công ty kim khí Hưng Yên cho rằng căn cứ vào Bản cam kết công nợ ngày 01/04/2007 của ông Dũng cam kết với bà Toàn trả toàn bộ các khoản nợ của Công ty kim khí Hưng Yên với chủ nợ và văn bản cam kết xin nhận trách nhiệm và bồi thường thiệt hại tất cả các hợp đồng đã thay mặt công ty ký của ông Mạnh thì trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel là của của ông Dũng và ông Mạnh chứ không phải của Công ty kim khí Hưng Yên. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh quyết định Công ty kim khí Hưng Yên phải bồi thường cho Công ty Vinausteel theo sự trình bày của Công ty Vinausteel. Tòa phúc thẩm cho rằng Tòa sơ thẩm chưa đưa ông Dũng, ông Mạnh tham tố tụng đúng tư cách, chưa thu thập đầy đủ chứng cứ và việc tranh chấp về thẩm quyền chưa được xem xét nên hủy bản án sơ thẩm để xem xét giải quyết lại. Nhưng sau đó vụ án bị đình chỉ. Tòa tối cao cho rằng Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm quyết định đình chỉ vụ án là không đúng. Ông Mạnh đại diện Công ty kim khí Hưng Yên ký hợp đồng với Công ty Vinausteel là đúng theo giấy ủy quyền, còn việc Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng là trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng Yên chứ không phải của ông Mạnh. Việc ông Dũng và ông Mạnh có thỏa thuận chịu các khoản nợ của công ty là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên. Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Dũng, ông Mạnh.  Tóm tắt Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/04/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam khởi kiện bị đơn là Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex về việc thanh toán nợ do Xí nghiệp xây dựng 4 (trực thuộc Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex) vay vào ngày 14/05/2001.Ngân hàng Công thương Việt Nam cho rằng Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex có trách nhiệm thanh toán nợ. Còn Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex cho rằng tuy ông Thìn đã ký Công văn số 23 đồng ý cho Xí nghiệp 4 vay vốn nhưng khi ông Thuận lên làm Giám đốc thì ông Thuận không đồng ý cho Xí nghiệp 4 vay nữa. Tài sản bảo đảm là toàn bộ hình thành từ vốn vay, 2 ngôi nhà và quyền sử dụng đất của ông Tâm và ông Toản. Tuy nhiên, khi ký hợp đồng bảo lãnh ngôi nhà và quyền sử dụng đất của ông Toản và bà Nga (vợ ông Toàn) thì bà Nga không biết. Ngoài ra, ông Tâm đã thế chấp 02 máy cho ông Hòa để thanh toán nợ ở Quảng Bình. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã quyết định; Buộc Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex thanh toán cho Ngân hàng Công thương Việt Nam và ông Toản, hợp đồng bảo lãnh của ông Toản với ngân hàng vô hiệu, bảo thủ 02 máy đang ở chỗ ông Hòa.

4

Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm phần liên quan đến trách nhiệm của Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex và ông Hòa, vô hiệu một phần hợp đồng bảo lãnh của ông Toản với ngân hàng (cụ thể là vô hiệu phần liên quan đến bà Nga – vợ ông Toản), kê biên ½ giá trị nhà và quyền sử dụng đất của ông Toản, bà Nga cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ bảo lãnh, sau khi thực hiện xong nghĩa vụ bảo lãnh, ông Toản, bà Nga được yêu cầu Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex trả lại số tiền ông đã trả nợ thay và yêu cầu ngân hàng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và sử dụng đất. Theo quan điểm của Tòa giám đốc thẩm, Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex biết nhưng không phản đối Xí nghiệp 4 vay tiền nên Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex phải có trách nhiệm trả khoản nợ cho Ngân hàng Công Thương Việt Nam, cần xác nhận tài sản ông Toản thế chấp là tài sản chung hay riêng của bà Nga và theo quy định về tài sản chung thì phải vô hiệu toàn bộ hợp đồng bảo lãnh, 2 máy đang ở chỗ ông Hòa tuyên bảo thủ là chưa chính xác mà phải tuyên ông Hòa có nghĩa vụ bảo quản, giữa gìn mới đúng. * Trường hợp đại diện hợp lệ Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện. Cơ sở pháp lý: Điều 139 đến 148 BLDS 2005 và Điều 134 đến 143 BLDS 2015. BLDS 2015 đã có những điểm mới so với BLDS 2005: - Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 1 qui định không chỉ cá nhân mà pháp nhân cũng có thể là người đại diện cho cá nhân hay một pháp nhân. Một pháp nhân hoàn toàn có thể ủy quyền cho một pháp nhân khác nhân danh mình tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định mà hợp đồng ủy quyền đó là hợp pháp. Theo Điều 139 BLDS 20052 thì người được đại diện chỉ có thể là cá nhân mà không thể là pháp nhân, theo đó cá nhân và pháp nhân chỉ có thể ủy quyền cho cá nhân mà không cho phép ủy quyền cho một pháp nhân khác đại diện mình tham gia một quan hệ pháp luật. - Thứ hai, BLDS 2015 đã tách riêng đại diện theo pháp luật của cá nhân và pháp nhân thành hai điều 136 và 137, quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong từng trường hợp so với quy định trước đây của BLDS 2005. Tại khoản 2 Điều 137 BLDS 20153, một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. - Thứ ba, BLDS 2015 quy định rõ về thời hạn đại diện tại Điều 140, bổ sung quy định về việc xác định thời hạn đại diện trong trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo văn bản ủy quyền; quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Cụ thể: Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó. Nếu quyền 1

“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.”. 2 “1. Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.”. 3 “2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.”.

5

đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện. - Thứ tư, BLDS 2015 bổ sung quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện và do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện, Điều 142 BLDS 2015 đã nói rõ hơn về các trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện như: Người được đại diện đã công nhận giao dịch; Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện. Khoản 4 Điều 142 của BLDS 20154 còn bổ sung trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện được quy định tại Điều 143 BLDS 2015 đã bổ sung thêm trường hợp “Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện” vào các trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Điều 143 BLDS 2015 đã bổ sung “Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.” tại khoản quy định về trách nhiệm của người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel? Đoạn: “Bởi lẽ, ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan có Giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Minh – Phó Tổng Giám đốc Công ty kim khí Hưng Yên được thay mặt Công ty thực hiện các giao dịch kinh tế trong phạm vi ngành nghề kinh doanh (trong thời gian này bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện theo pháp luật của Công ty kim khí Hưng Yên), nên ngày 16/01/2007, ông Mạnh đã đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký Hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Công ty Vinausteel.”. Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không? 4

“4. Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.”.

6

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm gì với Công ty Vinausteel, bởi ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan có Giấy ủy quyền cho ông Mạnh được thay mặt Công ty thực hiện các giao dịch kinh tế trong phạm vi hành nghề (trong thời gian này bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện theo pháp luật của Công ty kim khí Hưng Yên). Như vậy ông Mạnh là người đại diện theo ủy quyền tại khoản 1 Điều 143 BLDS 2005. Việc ông Mạnh có Bản cam kết vào ngày 01/04/2007 về việc chịu trách nhiệm và nhận trách nhiệm trả các khoản nợ và bồi thường thiệt hại phát sinh từ các giao dịch hợp đồng kể từ khi ông Mạnh là người đại diện theo ủy quyền không thuộc trường hợp chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 315 BLDS 2005 5 bởi Công ty Vinausteel (bên có quyền) không tham gia ký kết và không đồng ý. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết phục không?) Tòa giám đốc thẩm cho rằng việc ký hợp đồng của ông Mạnh là hợp pháp và trong thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền, còn bản cam kết của ông Mạnh không có hiệu lực bởi không có sự đồng ý của Công ty Vinausteel, đây là hướng giải quyết chưa thuyết phục. Cơ sở pháp lý: Điều 120 Luật doanh nghiệp 2005. Tòa giám đốc thẩm đã đã không làm rõ chi tiết “Hợp đồng, giao dịch phải được Hội đồng quản trị chấp thuận”, vì Công ty kim khí Hưng Yên cho rằng hợp đồng do ông mạnh ký không thông qua Hội đồng quản trị nên hợp đồng đó phải vô hiệu. Vì vậy cần phải điều tra việc hợp đồng ông Mạnh ký với Vinausteel đã thông qua và được Hội đồng quản trị chấp thuận hay chưa. Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel không? Theo Hội đồng thẩm phán, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên. Tòa giám đốc thẩm chỉ xác định chủ thể có trách nhiệm trong việc thanh toán nợ và bồi thường hợp đồng với Công ty Vinausteel nhưng chưa làm rõ các khoản nợ và bồi thường thiệt hại mà Công ty kim khí Hưng Yên phải bồi thường là một thiếu sót. Công ty Vinausteel xác định các khoản tiền mà Công ty kim khí Hưng Yên phải bồi thường bao gồm tiền gốc, tiền chênh lệch do phải mua thép bù vào chỗ thiếu, tiền phạt do vi phạm hợp đồng, tiền lãi do chậm thanh toán. Nhưng trong hợp đồng quy định tiền phạt chỉ phát sinh khi Công ty kim khí Hưng Yên không giao hàng cho Công ty Vinausteel khi đến thời hạn trong khi thực tế Công ty kim khí Hưng Yên giao thiếu chứ không phải là không giao. Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không? Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan 5 “1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.”.

7

đến Hưng Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án. Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này không ràng buộc Hưng Yên. Vì bản chất của thỏa thuận trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Điều 19 Luật trọng tài thương mại chỉ rõ “thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không là mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài” Dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới một hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất là hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. * Trường hợp đại diện không hợp lệ Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)? Đoạn: “Theo tài liệu do Công ty xây dựng số II Nghệ An xuất trình thì ngày 26/03/2001, Công ty xây dựng số II có Công văn số 263 CV/XD2.TCKT quy định về việc vay vốn tín dụng của các đơn vị trực thuộc và ngày 06/04/2001, Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn sô 064CV/XDII.TCKT gửi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng Công thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An vay vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của Công ty kể từ ngày 04/06/2001…” và “Các văn bản của Công ty liên quan đến vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ An ban hành trước ngày 06/04/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/05/2001 Ngân hàng vẫn ký hợp đồng tín dụng số 01/ HĐTD cho Xí nghiệp xâu dựng 4 vay tiền.” Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không? Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng và phải trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Cơ sở pháp lý: Điều 92, Điều 145 BLDS 2005. Thứ nhất, Xí nghiệp 4 là đơn vị trực thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An. Vì vậy theo khoản 3 Điều 92 BLDS 2005 thì Xí nghiệp 4 có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân là Công ty xây dựng số II nên việc Xí nghiệp 4 mà đại diện là ông Tâm (Giám đốc Xí nghiệp) ký Hợp đồng với Ngân hàng với mục đích để đầu tư mua máy móc thiết bị nâng cao năng lực thi công là hợp lý. Thứ hai, theo khoản 5 Điều 92 BLDS 2005 thì pháp nhân (Công ty xây dựng số II Nghệ An) có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện. Tức Công ty xây dựng số II

8

Nghệ An có quyền quyết định Xí nghiệp 4 và hay không vay nhưng trong Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT thì Công ty xây dựng số II Nghệ An đã có Quyết định số 02/QĐ-CT ngày 09/02/2001 về việc phê duyệt dự án đầu tư “Mua sắm máy moc thiết bị của Xí nghiệp xây dựng 4”, tiếp theo là Văn bản số 23 CV/TCT thông báo cho Ngân hàng Công thương Nghệ An biết về việc Công ty đồng ý cho Xí nghiệp 4 trực tiếp vay vốn tại Ngân hàng nên Công ty xây dựng số II Nghệ An phải chịu trách nhiệm là hợp lý. Thứ ba, theo Điều 145 BLDS 2005 thì ông Tâm là người đại diện không hợp lệ nhưng không có chi tiết ông Tâm đã nhận được công văn phản đối của ông Thuận hay không. Xét 3 trường hợp: - Trường hợp 1: Ông Tâm và Ngân hàng đều không nhận được công văn phản đối thì quyết định của Tòa án là hợp lý - Trường hợp 2: Ông Tâm nhận được công văn phản đối vủa cấp trên nhưng vẫn ký hợp đồng và Ngân hàng không biết thì ông Tâm phải chịu trách nhiệm. - Trường hợp 3: Ông Tâm và Ngân hàng đều biết về công văn phản đối nhưng vẫn ký hợp đồng thì ông Tâm và Ngân hàng phải liên đới giải quyết.  Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao? Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện). Thì xác định rằng, Ngân hàng không có quyền hủy bỏ hợp đồng vì Ngân hàng không có cơ sở để biết Xí nghiệp số 4 có quyền đại diện hay không. Do Công ty Vinaconex cũng không chứng minh được là đã có thông báo cho Ngân hàng về việc Xí nghiệp xây dựng 4 không có quyền đại diện về vay vốn. Ngoài ra, việc người đại diện biết mà không phản đối gì. Cụ thể là (Khi nhận được tiền, Xí nghiệp xây dựng 4 đã mua máy móc phục vụ công việc được Công ty giao và “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính một lần” nên ban giám đốc Công ty đều biết việc vay vốn Ngân hàng của Xí nghiệp xây dựng 4 và không phản đối. Hơn nữa, ngày 28/10/2002, Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công Văn số 44 QĐ/CTII điều chuyển một số máy móc, phương tiện vận tải của Xí nghiệp xây dựng 4 (trong đó có một số thiết bị, máy móc hình thành từ vốn vay Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng trên) về văn cơ quan đề phục vụ thi công một số công trình do Công ty thực hiện). Có thể, cho rằng Công ty ngầm công nhận giao dịch trên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện theo điểm a khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. 2. Nghiên cứu 2  Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: Nguyên đơn: Bà Cao Thi Xê Bị đơn: Chị Võ Thị Thu Hương, anh Nguyễn Quốc Chính Nội dung: Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964, có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Kệ và có một con chung là Võ Thị Thu Hương (sinh ngày 29-9-1965). Sau ngày miền Nam giải phóng ông Lưu chuyển công

9

tác về miền Nam, chị Hương vẫn ở Phú Thọ, từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm chưa vào thăm lần nào. Ngày 21-10-196, ông Lưu làm thủ tục đăng kí kết hôn với bà Cao Thị Xê tại Ủy ban nhân dân phưởng 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Ông Lưu lập văn bản để là “Di chúc” ngày 27-7-2002 thể hiện ý chí của ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê. Sau khi ông Lưu chết, vợ chồng chị Võ Thị Thu Hương vào ở căn nhà (ông Lưu nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Bướm 101m2 đất tại tổ 8, khu phố 10, phường 6, thành phố Mỹ Tho và cất nhà ở) cùng bà Xê. Nhưng bà Thẩm cho rằng căn nhà này được tạo lập trong thời kì hôn nhân của bà Thẩm và ông Lưu, nên bà Thẩm không đồng ý yêu cầu được hưởng thừa kế theo di chúc của bà Xê. Quyết định các cấp xét xử: Tòa án sơ thẩm đã chia tài sản theo di chúc, Tòa án phúc thẩm theo hướng giải quyết của Tòa sơ thẩm và chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm, có hướng giải quyết bảo vệ quyền lợi cho bà Thẩm.  Tóm tắt Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: Cụ Huệ có tạo lập được một căn nhà, có giấy chứng nhận của Sở xây dựng tỉnh Tiền Giang cấp. Trước khi chết, cụ Huệ để lại di chúc cho ông Hà (con cụ Huệ). Ông Hà chết, không để lại di chúc. Theo thỏa thuận (bà Ơn vợ ông Hà) được thừa kế toàn bộ tài sản này. Nhưng thực tế, bà Chắc cùng cụ Thiệu (mẹ đẻ cụ Huệ) đã sống rất lâu trong ngôi nhà này nên bà Chắc không đồng ý trả lại nhà đất cho bà Ơn và yêu cầu được công nhận đây là tài sản của bà. Quyết định các cấp xét xử: Tòa sơ thẩm-phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà Chắc. Viện kiểm sát kháng nghị, chỉ rõ những sai sót của Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm. Đồng thời xem xét lại về quyền lợi của bà Chắc trong công sức quản lí và bảo vệ nhà đất.  Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/09/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Bà Khót, ông Tâm là con của cụ Khánh và cụ Lầm; ông Nhật là con của cụ Khánh và cụ Ngọt. Năm 2000, cụ Khánh chết và lập di chúc để lại toàn bộ di sản cho ông Nhật. Nhưng tại thời điểm mở thừa kế, bà Khót và ông Tâm yêu cầu được hưởng thừa kế của cụ Khánh theo quy định của pháp luật về người thừa kế không theo nội dung của di chúc. Quyết định của cấp xét xử: Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà Khót và ông Tâm vè việc hưởng thừa kế của cụ Khánh theo quy định của pháp luật về người thừa kế không theo nội dung di chúc. * Hình thức sở hữu tài sản Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản. Tiêu chí

BLDS 2005

BLDS 2015

1. Sở hữu Quy định: “Tài sản thuộc hình toàn dân- sở thức sở hữu nhà nước bao gồm hữu nhà nước đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà

10

Quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác

nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định.” Điều 200 BLDS 2005.

và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.” Điều 197 BLDS 2005.

2. Sở hữu tư nhân, sở hữu tổ chức, sở hữu tập thểsở hữu riêng

Sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu của tổ chức được phân chia thành các mục khác nhau. Điều 208- Điều 213 BLDS 2005.

Ba loại hình sở hữu này được gộp thành sở hữu riêng: “1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân..” (khoản 1 điều 205 BLDS 2015). Việc gộp chung lại nhằm tạo sự ngắn gọn, tránh rườm rà, gây trở ngại cho việc áp dụng pháp luật.

3. Sở hữu tổ chức, sở hữu tập thể, sở hữu chungsở hữu chung

Sở hữu của tổ chức, sở hữu tập thể mặc dù vẫn có hình thức thuộc sở hữu chung song lại thuộc mục riêng. Điều 214- Điều 226 BLDS 2005.

Các loại hình trên được gộp thành hình thức sở hữu chung. Cũng giống như việc gộp sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu của tổ chức thành sở hữu riêng thì việc gộp sở hữu của tổ chức, sở hữu tập thể, sở hữu chung thành hình thức sở hữu chung nhằm tạo sự ngắn gọn, bớt rườm rà, dễ dàng hơn trong việc áp dụng pháp luật. Điều 207- Điều 220 BLDS 2015

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lâ ̣p trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 cho câu trả lời? Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kì hôn nhân với bà Thẩm. Đoạn của Quyết định 377: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kì hôn nhân của ông Lưu và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông; bà thẩm không

11

có đóng góp gì về kinh tế cũng như công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với căn nhà nêu trên.” Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời? Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng bà. Đoạn của Quyết định 377: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Tòa giải quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương.” Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời? Theo Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của ông Lưu. Đoạn của Quyết định 377: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kì hôn nhân của ông Lưu và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông; bà thẩm không có đóng góp gì về kinh tế cũng như công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với căn nhà nêu trên.” Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao? Theo em, quyết định trên của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý. Căn cứ khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 6 thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì không được xem là tài sản chung của vợ chồng. Khi tài sản do một người tự tạo lập trong thời kì hôn nhân bằng công sức của riêng mình và không có công sức của người còn lại, thực tiễn xét xử hiện nay cũng khá lúng túng trong việc xác định là tài sản chung của vợ hoặc chồng hay là tài sản riêng của người đã tạo lập (xu hướng hiện nay coi đây là tài sản riêng của người đã tạo lập ra tài sản)7. Xét thấy, tuy căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt được tạo lập trong thời kì hôn nhân với bà Thẩm nhưng căn nhà trên được tạo lập bằng nguồn thu nhập riêng của ông Lưu chứ bà Thẩm không có đóng góp gì, nên căn nhà là tài sản riêng của ông Lưu. Cụ thể, ông Lưu chuyển vào miền Nam công tác vào năm 1975. Đến năm 1944, ông mới nhận được chuyển nhượng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt. Nên việc nhận định căn nhà trên là tài sản riêng của Lưu là hợp lí. Nếu căn cứ trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời. 6

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.” 7 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam- Bản án và bình luận án, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam 2019 (Xuất bản lần thứ tư), Bản án số 8-10, Tr.99

12

Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu và bà Thẩm thì ông Lưu không thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà. Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 218 BLDS 20158 Trước tiên cần xác định, sở hữu chung của vợ chồng là hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Khi này, ông Lưu chỉ có thể định đoạt tương ứng với phần của mình trong khối tài sản chung của vợ và chồng. Và mặt khác, theo khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 9 có ghi nhận: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.” Nên nếu ông Lưu định đoạt toàn bộ căn nhà đồng nghĩa với việc ông định đoạt cả phần sở hữu của vợ là bà Lưu và vi phạm những nguyên tắc trên của pháp luật. * Diện thừa kế Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao? Bà Thẩm (vợ) và chị Hương (con) thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 về Người thừa kế theo pháp luật: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Bà thẩm được xem là vợ hợp pháp của ông Lưu vì kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có đăng kí kết hôn tại UBND xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ và thõa mãn các điều kiện kết hôn tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Còn bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu vì bà Xê và ông Lưu kết hôn trái pháp luật theo điểm d khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn10. Đó là cuộc hôn nhân này đã xâm phạm đến chế độ hôn nhân gia đình được pháp luật bảo vệ quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Ông Lưu kết hôn với bà Thẩm vào năm 1964 và chưa làm thủ tục li dị nên khi ông kết hôn với bà Xê năm 1996 có thể cho rằng bà Xê đã kết hôn với người đã có vợ, hành vi bị nghiêm cấm theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 11. Vì vậy, bà Xê không phải vợ hợp pháp và không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao? Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì bà Xê sẽ được xem là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất như bà Thẩm. Căn cứ theo Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 19/10/1990 tại điểm a khoản 4 về những người thừa kế theo pháp luật thì: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13/01/1960- ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình 1959 8

“1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình.” “1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.” 10 “d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.” 11 “c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;” 9

13

đối với miền Bắc; trước ngày 25/03/1977- ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước- đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội lấy vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ và việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của chồng và ngược lại. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 tại Tiền Giang (miền Nam) trước ngày 25/03/1977 như quy định trên thì bà Xê sẽ là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao? Trong vụ việc này, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu. Vì: - Thứ nhất ông Lưu chết có để lại di chúc toàn bộ căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt cho bà Xê. - Thứ hai, thừa kế theo pháp luật không được áp dụng trong trường hợp này vì không rơi vào các quy định tại điều 650 BLDS 2015. - Thứ ba, chị Hương không phải là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015. Vì chị Hương là con đã thành niên (sinh năm 1965- tính đến thời điểm bà Xê làm đơn kiện đã 39 tuổi) và có khả năng lao động bình thường. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Theo Điều 614 BLDS 2015 về Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ thừa kế thì: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại." Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao? * Theo Quyết định số 08, người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp sau khi ông Hà chết ngày 12/5/2008. Vì, sau khi người để lại di sản chết người thừa kế có quyền và nghĩa vụ di sản theo quy định Điều 636 BLDS 2005 (Điều 614 BLDS 2015). * Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc Đoạn nào của Quyết định 377 cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông cho bà Xê? Đoạn “bà Cao Thị Xê được hưởng thừa kế theo di chúc ngày 27/7/2002 do ông Võ Văn Lưu viết gồm các tài sản nhà và đất tọa lạc tại số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6 thành phố Mỹ Tho đã được ghi nhận tại biên bản xác minh......Tổng giá trị nhà và đất và tài sản bàn ghế 379085094 đồng” Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao? * Bà Xê, bà Thẩm và chị Hương thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì bà Xê, bà Thẩm và chị Hương thược hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định:

14

Hàng thùa kế thứ nhát gồm :vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. -) Sai Trả lời lại: Căn cứ theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 (Điều 669 BLDS 2005) quy định thì: “1. Những người sau đây được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; b) Con thành niên mà không có khả năng lao động;” Mà ở đây, xét: - Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu đồng thời không có khả năng lao động (không có thu nhập chỉ ở nhà chăm sóc con) do đó bà Thẩm thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu. - Chị Hương là người đã thành niên, có khả năng lao động, nên chị Hương không thuộc diện hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu. - Bà Xê không phải là vợ hợp pháp của ông Lưu, do đó bà Xê không thuộc diện hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm không được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? Theo Tòa án dân sự Tìa án nhân dân tối cao bà thẩm là người hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu vì Tòa cho rằng bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, tài sản căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân của bà Thẩm và ông Lưu nên đó là tài sản chung hai vợ chồng.Trong thời gian ông Lưu ở miền Nam bà đã không đóng góp về kinh tế là do đã già yếu, không còn khả năng lao động theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa kế tài snar của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Đoạn” Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm là quan hệ hôn nhân hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo quy định của pháp luật, còn quan hệ hôn nhân giũa ông lưu và bà Xê là vi phạm pháp luật.......Tuy nhiên,do bà Thẩm đang là vợ hợp phapscuar ông Lưu đã già yếu, không còn khả năng lao động, theo quy định tại điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao? Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, cps khả năng lao động thì bà vẫn được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì: +theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 quy định: “1.Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong

15

trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a)con chưa thành niên, cha, mẹ,vợ, chồng b)con thành niên mà không có khả năng lao động” Mặc dù trong di chúc ông Lưu để lại toàn bộ cho bà Xê nhưng bà Thầm nằm trong đối trượng được hưởng hai phần 3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao? * Bà Thẩm sẽ nhận được 400 triệu đồng từ di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng. Vì theo khoản 1 Điều 644 BLDS thì bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu nên sẽ được hưởng hai phần ba số tài sản từ suất của người người thừa kế theo pháp luật. 200 triệu đồng. Căn cứ khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao? ** Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thầm sẽ được chấp nhận vì theo khoản 2 Điều 660 BLDS 2015 quy định: “Nhũng người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.” Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh? Đoạn”cụ Nguyễn Thị Khánh và vụ cụ An Văn Lâm (chết năm 1938) có 2 con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1982. Cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt( chết năm 1973) có 01 con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930. Năm 2000 cụ Khánh chết. Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh một cách đầy đủ nhưng đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, ông Tâm, ông Nhật và không có tranh chấp gì về hàng thừa kế đồng thời cũng xác nhận cha mẹ của cụ Khánh chết trước cụ Khánh đã lâu.” Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ di sản có tranh chấp? Ông Nguyễn Tài Nhật là người được cụ Khánh lập di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp. Đó là căn nhà 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2 nằm trong qui hoạch và được bồi thường, hỗ trợ thiệt hại với tổng số tiền là 1847491000 đồng. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm là con đã thành niên của cụ Khánh Đoạn” cụ Nguyễn Thị Khánh và vụ cụ An Văn Lâm (chết năm 1938) có 2 con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1982. Cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt( chết năm 1973) có 01 con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930. Năm 2000 cụ Khánh chết.”

16

Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Đoạn” xét yêu cầu của ông Tâm, bà Khót về việc được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc do không có khả năng lao động vì tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi lại là thương binh 2/4, thấy tại Điều 140,145 của Bộ luật lao động năm 1994 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và tuwf15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ.......Hội đồng xét xử nhạn thaayskhoong có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về nguoief được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là 400000000 đồng” Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. Theo em, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Vì ông Tâm và bà Khót yêu cầu được hưởng thừa kế của cụ Khánh theo quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhưng bà Khót và ông Tâm không xuất trình được chứng cứ chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng lao động. Bên cạnh đó, bà Khót và ông Tâm có đờ sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của nhà nước theo diện người có công với cách mạng khoảng 400.000đ; còn ông Tâm tuy là thương binh 2/4, theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn 2.000.000đ nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót và ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là hợp lý. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động? Vì sao? Nếu ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động thì hướng giải quyết khác. Vì lúc này ông Tâm không phải là thương binh 2/4, không được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng là số tiền hơn 2.000.000 đồng. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không định nghĩa nhưng đưa ra một số trường hợp được coi là “mất khả năng lao động”. Đó là trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên. Ở trường hợp ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động thì nên được liệt vào diện “mất khả năng lao động”, căn cứ vào Điều 669 Bộ luật dân sự 2005 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì ông Tâm được hưởng di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản? * Giống nhau:

17

-

Đều có sự định đoạt về tài sản của người có tài sản, là sự chuyển giao của người này sang người khác. Đều là người phải còn sống. * Khác nhau:

Tiêu chí Phương thức thể hiện Ý chí

Người thừa kế/ nhận cho

Thời điểm có hiệu lực

Di chúc Được ghi nhận bằng di chúc hợp pháp Ý chí định đoạt đơn phương của người lập di chúc Người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừ kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tai sản chết

18

Tặng cho tài sản Được thể hiện qua hợp đồng tặng cho tài sản Là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí của người tặng cho và người được tặng cho, nói chung là ý chí song phương Người nhận tặng cho phải là người còn sống nếu là cá nhân; nếu là tổ chức thì phải tồn tại vào thời điểm tặng cho.

Hợp đồng tặng cho động sản - Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ TH có thỏa thuận khác. - Đối với động sản mà luật có quy định đăng kí quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng kí. Hợp đồng tặng cho bất động sản - Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí nếu bất động sản phải đăng kí quyền sở hữu theo quy định của luật. - Hợp đồng tặng cho bất

Thực hiện nghĩa vụ tài sản

- Người thừa kế được quyền nhưng đồng thời phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

động sản có hiệu lực kể ừ thời điểm đăng kí; nếu bất động sản không phải đăng kí quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản - Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không có đền bù. Do đó, ngườ được tặng cho không phải hoàn trả một lợi ích hay thực hiện một nghĩa vụ tài sản nào.

Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc, mà trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không? Theo em, bà Thẩm không được hưởng phần di sản của ông Lưu như trên vì tình huống đặt ra là ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu nếu ông Lưu làm đúng thủ tục là lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và chuyển quyền sở hữu cho bà Xê mà không yêu cầu đền bù, còn bà Xê đồng ý nhận. Căn cứ Điều 615 BLDS 2015 Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng cho. * Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh toán? Theo Điều 658 BLDS 2015 về Thứ tự ưu tiên thanh toán: “Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây: 1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng. 2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu. 3. Chi phí cho việc bảo quản di sản. 4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ. 5. Tiền công lao động. 6. Tiền bồi thường thiệt hại. 7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước. 8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân. 9. Tiền phạt. 10. Các chi phí khác”.

19

Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành không? Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, và có người con chung là bà Hương (“Ngày 26-10-1964 ông Võ Văn Lưu kết hôn với bà Nguyễn Thị Thẩm có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Kê, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Chị Hương là con chung của ông Lưu, bà Thẩm”). Do vậy, ông Lưu phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương trong thời gian từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành? Đoạn "Mặc khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào Miền Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)." Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung không? Theo Tòa dân tự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì sẽ trích cho bà Thẩm một phần từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung. Căn cứ vào đoạn "Mặc khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào Miền Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu)." Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án. Theo quy định tại Điều 637: Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại "1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế. 3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân."

20

Trong bản án thì Tòa án đưa ra giải pháp nếu bà Thẩm có yêu cầu chia tiền nuôi con khôn lớn trong lúc không có ông Lưu là phải trích một khoản tiền trong di sản của ông Lưu cho bà Thẩm. Giải pháp này rất hợp lý vì bà Hương cũng là con chung của hai người nên cả hai phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng cũng như trợ cấp cho nhau nếu không thể cùng nhau nuôi lớn con cái và trong trường hợp này số tiền ông Lưu phải trả cũng giống như số nợ mà ông Lưu thiếu của bà Thẩm nên đó cũng chính là nghĩa vụ tài sản của ông Lưu nên phải trích ra trả nợ. 3. Nghiên cứu 3  Tóm tắt Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011: Nguyên đơn: Anh Lê Quốc Toàn Bị đơn: Chị Lê Thị Thu, Anh Lê Quốc Tuấn. Nội dung: Ông Lê Gia Minh (cha của nguyên đơn và bị đơn) có hai người vợ là bà Lê Thị Bằng và bà Nguyễn Thị Lan. Ông Minh và bà Bằng có hai người con chung là anh Lê Văn Vinh và Lê Thị Xuyến, ông Minh va bà Lan có 5 người con chung là: Chị Lê Thị Thu, anh Lê Quốc Tuấn, chị Lê Hồng Thúy, chị Lê Thiên Hương và anh Lê Quốc Tuấn, ngoài ra bà Lan còn có một người con riêng là chị Hoàng Thị Sâm. Trước khi chết, ông Minh có di chúc cho bà Lan và các anh chị em trong gia đình (di chúc ngày 24/8/1997), sau khi ông Minh chết bà Lan chuyển nhượng 55m2 đất ở số 64 Trần Đăng Ninh, chia cho các con theo di chúc của ông Minh. Bà Lan lập di chúc vào ngày 08-10-1998, nhưng ngày 18-04-2005, bà Lan làm “Đơn hủy di chúc”. Nguyên đơn không công nhận văn bản hủy di chúc và yêu cầu bị đơn trả lại cho anh tiền thuê căn nhà từ khi mẹ anh chết đến nay. Bị đơn đề nghị Tòa án xem xét bản hủy di chúc của bà Lan có hiệu lực pháp luật.  Tóm tắt Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011: Nguyên đơn: Anh Dương Văn Đang Bị đơn: Ông Dương Văn Sáu Nội dung: Nguyên đơn là anh Dương Văn Đang trình bày: Năm 1994 cụ Dương Văn Trượng (là ông nội anh) cho anh đất thuộc thửa 543. Ngày 01-3-1997, cụ Trượng lập di chúc cho anh 3.000m2. Năm 1996, anh cho vợ chồng ông Dương Văn Sáu (là con cụ Trượng), bà Đỗ Thị Hơn 530m2 đất để canh tác. Nhưng hiện tại ông Sáu đang canh tác 1.500m2 đất và cho rằng cụ Trượng viết lại di chúc năm 1999 cho vợ chồng ông Sáu diện tích đất này mà anh không biết và không công nhận. Yêu cầu vợ chồng ông Sáu hoàn trả lại cho anh đất thuộc thửa 543. Song bị đơn là ông Sáu và bà Hơn trình bày năm 1997 ông bà nhận nuôi cụ Trượng và cụ Tào. Ngày 07-02-1999, cụ Trương lập di chúc cho ông bà 1.000m2 đất thuộc thửa 543, có xác nhận chính quyền địa phương. Gia đình ông sử dụng từ đó đến nay nên không công nhận yêu cầu của nguyên đơn.  Tóm tắt Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Nhiên Bị đơn: Ông Bùi Văn Mạnh Nội dung: Vợ chồng cụ Bùi Hữu Môn và cụ Hoàng Thị Giảng sinh được năm người con: Bùi Thị My, Bùi Văn Đức, Bùi Văn Nhiên, Bùi Thị Lương và Bùi Văn Mạnh. Ngày 15/5/1998, cụ Môn lập di chúc được UBND xã Đức Thắng chứng thực nhưng không có chữ kí của cụ Giảng. Cụ Giảng chết không để lại di chúc. Ngày 11/4/2000,

21

cụ Môn thống nhất lại nội dung di chúc ngày 15/5/1998. Nhưng sau khi cụ Môn chết, di chúc để lại không rõ ràng, nguyên đơn trình bày ông Mạnh đã lấn chiếm đất của cụ Môn, nay ông yêu cầu được chia thừa kế theo pháp luật. Bị đơn trình bày, cụ Môn đã để lại di chúc và ông Nhiên không muốn thực hiện theo di chúc, nay ông yêu cầu căn cứ di chúc.  Tóm tắt Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn Thị Bay Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lên, Bà Nguyễn Thị Sáu Nội dung: Cụ Nguyễn Văn Nhà và cụ Phạm Thị Viết có năm người con: bà Nguyễn Thị Bay, bà Nguyễn Thị Lên, bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn Thị Sáu, ông Nguyễn Văn Cu. Nguyên đơn trình bày: Sau khi cụ Nguyễn Văn Nhà chết, bà Sáu và bà Lên có dỡ căn nhà cũ của cụ Nhà và dựng nhà mới, còn về diện tích đất tại xã Long Thượng hiện do con trai bà Sáu quản lý. Bà Chim và bà Sáu yêu cầu được chia thừa kế với hai diện tích này và không công nhận tờ di chúc do cụ Nhà lập ngày 26/07/2000. Bị đơn trình bày: Bà Lên, ông Cu và bà đang sử dụng thửa đất số 10 ở xã Mỹ Lộc do cụ Nhà đứng tên. Năm 2000, cụ Nhà còn minh mẫn nên đã lập di chúc, nay khi bà Sáu và bà Lên yêu cầu chia thừa kế ở hai mảnh đất này bà không đồng ý. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ). Về thời điểm thay đổi, huỷ bỏ di chúc: có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào. Căn cứ vào khoản 1 Điều 662 BLDS 2005 về Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc: “1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào”. Và khoản 1 Điều 664 BLDS 2005 về Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng: “1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào”. Về cách thức thay đổi, huỷ bỏ di chúc: + Đối với di chúc của cá nhân: theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 662 BLDS 2005: “2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. 3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị huỷ bỏ”. + Đối với di chúc chung của vợ, chồng: theo quy định tại khoản 2 Điều 664 BLDS 2005: “2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Về hình thức thay đổi, huỷ bỏ di chúc. + Theo quy định tại khoản 5 Điều 667 BLDS 2005:

22

“5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.” + Còn nếu thuộc trường hợp bắt buộc phải đi công chứng thì chỉ khi được công chứng thì di chúc mới có hiệu lực theo khoản 3 Điều 56 Luật Công chứng 2014 về Công chứng di chúc: “3. Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó. Trường hợp di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đó”. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không? Vì sao? Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc). Vì trong thực tiễn, trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới, thì di chúc trước bị huỷ bỏ. Điều này đã được thể hiện tại khoản 3 Điều 662 BLDS 2005 về Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc: “3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị huỷ bỏ”. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao? Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không phải tuân thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ. Trong thực tiễn, Quyết định số 619: Khi viết di chúc (ngày 08-10-1998) là do bà Lan viết di chúc, nhưng Đơn hủy di chúc lại do cháu gái của bà Lan viết hộ. Điều đó có nghĩa là di chúc trước có thể bị huỷ bỏ bởi di chúc sau cho dù có di chúc sau không có cùng hình thức đối với di chúc trước. Cho biết suy nghĩa của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc. Hướng giải quyết của Tòa án trong ba Quyết định trên là thỏa đáng. Vì các bản di chúc trong ba Quyết định trên đều không thể hiện được rõ ràng ý chí của người để lại di sản, vi phạm về cách thức thay đổi, hủy bỏ di chúc, cho nên không thể khẳng định các di chúc trên là hợp pháp được. Cụ thể, Tòa án đã xử lí như sau: Đối với Quyết định số 619: Yêu cầu xem xét bản di chúc thừa kế nhà ở của bà Lan có tuân thủ các quy định của pháp luật không. Đối với Quyết định số 767: Cần xác định di chúc lập ngày 7/3/1999 có thể hiện đúng ý chí của ông Trượng, bà Tào không. Nếu có thì cần làm rõ việc hai cụ đã thay đổi di chúc lập ngày 1/3/1979 bằng di chúc lập ngày 7/3/1999. Đối với Quyết định số 194: Thừa nhận di chúc do ông Môn lập ngày 15/5/1998 có hiệu lực một phần với tài sản của ông và đề nghị Tòa án cấp sơ

23

thẩm, phúc thẩm nên căn cứ vào Biên bản cuộc họp của gia đình cụ Môn để xem xét phần di sản của bà Giang nên chia thế nào cho phù hợp. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì? Đoạn cho thấy, trong Quyết định số 363, Toà án xác định đi chúc là có điều kiện: “Như vậy, di chúc này thuộc loại di chúc có điều kiện, khi xem xét công nhận di chúc hay không, phải xem xét những điều kiện được nêu trong di chúc có được đảm bảo thực hiện hay không”. Điều kiện của di chúc này: bà Nguyễn Thị Sáu và Bà Nguyễn Thị Lên có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không được quyền cầm cố hoặc chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Nguyễn Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già. Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở Việt Nam? Pháp luật về thừa kế của Việt Nam hiện nay chưa công nhận “di chúc có điều kiện”, tức là nếu người lập di chúc vẫn đưa ra những điều kiện mà người hưởng di sản phải đáp ứng thì mới được hưởng phần di sản đó thì coi như phần “điều kiện” của di chúc đó không có hiệu lực pháp luật. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng. Nếu điều kiện để hưởng di chúc nhằm bảo vệ một chủ thể thì khi điều kiện đó bị vi phạm thì tài sản tất nhiên không thuộc về người hưởng thừa kế mà phần di sản đó sẽ được chuyển giao quyền sở hữu lại cho người được bảo vệ. Nếu điều kiện di chúc không nhằm bảo vệ cho chủ thể nào thì khi điều kiện di chúc bị vi phạm phần di sản đó người thừa kế theo di chúc sẽ không được hưởng mà sẽ chia di sản theo pháp luật. Cho biết suy nghĩa của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên Luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?). Nên luật hóa về di chúc có điều kiện trong BLDS ở Việt Nam. Bởi vì, ngày nay nhu cầu về một bản “di chúc có điều kiện” là khá lớn. Việc luật hóa về di chúc có điều kiện cũng đang dần trở thành nhu cầu chung của xã hội. Và trong thực tế vì không có luật rõ ràng xác định về hệ quả của việc không hoàn thành điều kiện nên ý chí của người làm bản di chúc bị ảnh hưởng rất nhiều. Nếu luật hóa về di chúc có điều kiện thì nên có những nội dụng như: hệ quả khi không thực hiện được kèm theo là gì, thời gian hoàn thành điều kiện, những điều kiện của di chúc có ảnh hưởng đến đạo đức, an toàn xã hội, phạm vi năng lực của chủ thể lập di chúc có điều kiện cũng nên được xem xét thêm. 4. Nghiên cứu 4  Tóm tắt Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân: Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày 16/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế quyền sử đất” tại thành phố Hà Nội Nguyên đơn: bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2

24

Bị đơn: ông Phạm Văn H3 Tình huống án lệ: Nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng, mà một người chết trước. người còn lại và các thừa kế của ngưới chết trước đã thống nhất phân chia nhà đất. Thỏa thuận,phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào. Việc phân chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai. Sau khi người còn lại chết mới phát sinh tranh chấp. Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định nhà, đất đó đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân. Những người này chỉ có quyền khởi kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp mà không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế. Nội dung Án lệ: “…nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa.” Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản? Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản là: “… Sau đó, cụ V quay về nhà đất này và ở tại đây cho đến khi qua đời vào năm 1994. Sau khi về, cụ đã họp các con và đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất thành bốn phần riêng biệt cho các con, không ai có ý kiến gì và đều thống nhất thực hiện việc phân chia này. Như vậy, việc ông T, ông H3 đồng ý cùng với cụ V chia 464m2 đất đã thể hiện việc ông T, ông H3 chỉ là người đứng tên trong giấy tờ sổ sách giấy tờ về địa chính, nhà đất vẫn là của cụ V, cụ H chưa chia. Ông H3 cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh 162m2 là tài sản riêng của ông. Phần chia cho ông Đ (94m2), ông Q (78m2), ông T (189m2), các ông đều đã nhận đất sử dụng sau đó đã được đăng ký đứng tên chủ sử dụng đất, hoặc chuyển nhượng cho người khác thì cũng đã đăng ký điều chỉnh trong các giấy tờ về đất, cho đến nay không ai có tranh chấp gì.” Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã được Tòa án chấp nhận? Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã được Tòa án chấp nhận là: “Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không

25

vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa.” Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản. Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên có phần không hợp lý. Vì khối tài sản 464m2 là tài sản chung của vợ chồng cụ H và cụ V nên theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng thì cụ H và cụ V có quyền ngang nhau trong việc định đoạt, phân chia tài sản chung. Trong trường hợp này, cụ H đã chết và không để lại di chúc vì vậy khối di sản của cụ H để lại phải được thừa kế theo pháp luật căn cứ vào Điều 678 BLDS 1995 với số di sản là 232m2. Do đó, cụ V chỉ có quyền định đoạt phân chia tài sản của mình tổng cộng là ½ khối tài sản trong tài sản chung của vợ chồng và 1/8 số di sản được thừa kế theo pháp luật của chồng bà là cụ H. Ngoài ra về mặt hình thức phân chia tài sản căn cứ vào Điều 684 BLDS 1995 thì sau khi có thông báo mở thừa kế hay di chúc thì những người thừa kế phải có mặt để thỏa thuận, nhưng trong trường hợp này các bà H, H1, H2 không có mặt vì đang ở Miền Nam, do phần đất thừa kế của các bà nằm liền kề với phần đất của ông H3 nên ông là người quản lý. Các thỏa thuận này không được xác lập thành một văn bản. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản. Tranh chấp di sản:

Tranh chấp tài sản:

Theo quy định của pháp luật, tranh chấp di sản thừa kế bao gồm tranh chấp buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản hoặc theo yêu cầu chia di sản thừa kế (theo di chúc hoặc theo pháp luật), xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.12

Tài sản đang tranh chấp (tài sản là đối tượng của tranh chấp) là tài sản đang có hai hay nhiều người cùng xác nhận quyền của mình đối với tài sản đó và phủ định quyền của người kia đối với tài sản mà tài sản đó hiện không rõ thuộc về người nào. Đó có thể là tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản hoặc là tranh chấp về chia di sản thừa kế, tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng…13

Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản? 12 Nguồn Văn phòng Luật sư Nam Hà Nội “Tranh chấp di sản thừa kế bao gồm những vấn đề gì” – ThuKyLuat.vn 13 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia “Tài sản tranh chấp”

26

Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là tranh chấp về tài sản. Vì tài sản đang tranh chấp là 44,4m2 do ông H3 và các bà H, H1,H2 cùng xác nhận quyền của mình đối với tài sản. Cụ thể trong trường hợp tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản là bất động sản. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL là hợp lý. Vì việc phân chia đất đã diễn ra trên thực tế, không ai ý kiến gì và đã thống nhất việc phân chia. Do đó việc phân chia thừa kế coi như đã hoàn thành, tài sản được phân chia thuộc về cá nhận được nhận thừa kế. Tuy nhiên trong trường hợp này phát sinh việc tranh chấp giữa người quản lý tài sản là ông H3 đem tặng cho các con phần đất của mình bao gồm phần đất đang quản lý của các bà H, H1, H2. Với các chứng cứ đã có thì có cơ sở cho rằng trong 110m2 ông H3 đang quản lý có phần đất 44,4m2 của các bà H, H1, H2. Vì vậy trong trường hợp này ông H3 đã chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật. Vì vậy các bà H, H1, H2 có quyền khởi kiện yêu cầu trả lại phần bất động sản 44,4m2 là hợp lý. 5. Nghiên cứu 5  Tóm tắt Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao: Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân Bị đơn: ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Thị Thuý Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành Khang. Nội dung vụ án: “Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.”. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao? Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng là thuyết phục. Vì căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-

27

UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn và sau khi ông Hưng chết không để lại di chúc nên phần di sản của cụ Hưng được chia theo pháp luật là chính xác. Di sản của ông Hưng được xác định là ½ trong khối tài sản chung của vợ chồng, và phần còn lại là của bà Ngự. Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng người chết sau còn được hưởng phần di sản của người chết trước.14 Do đó, bà Ngự sẽ được hưởng ½ tài sản chung cộng với 1 ký phần thừa kế của cụ Trải.Suy ra rằng phần di sản của cụ Hưng được chia làm 7 ký bao gồm vợ và 6 người con của ông theo hàng thừa kế thứ nhất. Vì vậy việc cụ Trải được xác định hưởng 1/7 ký phần thừa kế của cụ Hưng là hợp lý và thuyết phục. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục không? Vì sao? Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ, chồng ông Trải, bà Tư là thuyết phục. Vì ở vụ việc này, chúng ta áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình năm 1959 vì ông Trải, bà Tư kết hôn trước Luật kết hôn năm 1986 và ông Trải hưởng di sản của cụ Hưng năm 1978. Do đó, phần của ông Trải được nhận từ cụ Hưng là tài sản chung của ông Trải và bà Tư. 15 Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao? Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lý di sản là thuyết phục. Từ thời điểm mở thừa kế đến khi di sản được chia, di sản có thể bị biến động và một trong những biến động trên có thể là do di sản được sữa chữa. 16 Trong trường hợp này “Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà.” Khó có thể tách rời phần sửa chữa ra khỏi di sản nên buộc phải coi đây là một bộ phận của di sản. Về cơ sở pháp lý có thể căn cứ theo khoảng 1 Điều 236 Bộ luật Dân sự 2005 (Được giữ lại trong Bộ luật dân sự 2015) “nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành; Chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, nếu không có thoả thuận khác.” Phần sửa chữa, phần gắn thêm vào di sản có thể coi là tài sản

14

Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (Xuất bản lần thứ tư), Bản án số 8-10, Tr.112-113.