Biến chứng chọc dịch màng bụng

1. Đại cương

– Là thủ thuật nhằm lấy dịch màng bụng giúp cho chẩn đoán xác định xem có dịch màng bụng không, hoặc lấy dịch làm xét nghiệm.

– Để điều trị: chọc tháo bớt dịch khi có quá nhiều dịch giúp bệnh nhi dễ thở, sau khi chọc tháo bơm thuốc kháng sinh để điều trị tại chỗ.

2. Chỉ định

– Nghi ngờ viêm phúc mạc hoặc chảy máu ổ bụng

– Cổ chướng to gây khó thở cho bệnh nhi (chọc tháo bớt dịch)

3. Chống chỉ định

Không có

4. Chuẩn bị

4.1   Người thực hiện

Bác sĩ thực hiện, điều dưỡng phụ

4.2   Phương tiện

– Bơm kim tiêm

– Ống nghiệm các loại

4.3   Bệnh nhi

Giải thích, công tác tư tưởng cho bệnh nhi, gia đình bệnh nhi

4.4   Hồ sơ bệnh án

5. Các bước tiến hành

5.1  Kiểm tra hồ sơ

5.2  Kiểm tra bệnh nhi

5.3  Thực hiện kỹ thuật

– Tư thế bệnh nhi: nằm ngửa hoặc nghiêng trái khi ít dịch

– Xác định vị trí chọc: 1/3 ngoài đường nối rốn – gai chậu trước trên bên trái.

– Điều dưỡng sát trùng, phủ săng, xịt xylocaine vị trí chọc

– Chọc kim vuông góc với thành bụng hoặc hơi chếch xuống dưới nếu ổ bụng ít dịch, chọc ngập kim nếu kim nhỏ cỡ 20, chọc nửa kim nếu kim cỡ 16

– Hút thử xem có dịch, nếu chưa ra dịch có thể thay đổi độ sâu hoặc hướng của kim.

– Kết thúc: rút kim, phủ chỗ chọc bằng gạc vô khuẩn, băng dính ép lại.

6. Theo dõi

– Chảy máu

– Nhiễm trùng

– Chọc vào ruột

7. Tai biến và xử trí

– Nhiễm trùng dùng kháng sinh

– Chảy máu, tiến hành băng cầm máu

– Chọc tháo rút nhiều dịch với tốc độ nhanh gây giảm áp lực đột ngột gây phù phổi cấp, nên tránh rút quá nhiều dịch, cho chảy ra từ từ.

Trích ” Hướng dẫn quy trình kỹ thuật Nhi khoa”

BỘ Y TẾ

Lượt xem: 6.032

1. CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH

1.1. Chỉ định

– Để chẩn đoán xác định có tràn dịch màng phổi. Ngày nay nhờ siêu âm có thể phát hiện rất nhạy tràn dịch màng phổi mức độ rất ít 5 ml trở lên; cho lên việc chọc thăm dò màng phổi không còn là biện pháp duy nhất nữa. Bao giờ cũng siêu âm rồi mới chọc dò màng phổi. Tuy nhiên ở tuyến trước cần phải căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng của tràn dịch màng phổi và sau đó chọc thăm dò.
– Để chẩn đoán nguyên nhân: người ta có thể căn cứ vào tính chất dịch được hút ra và làm các xét nghiệm: sinh hoá, tế bào, vi trùng, thì một số trường hợp có thể chẩn đoán được nguyên nhân của tràn dịch màng phổi. Tuy nhiên muốn chẩn đoán xác định nguyên nhân tràn dịch màng phổi vẫn phải dựa vào xét nghiệm mô bệnh và vi sinh vật .

– Để điều trị:

+ Hút tháo dịch để giải phóng sự chèn ép phổi .

+ Đối với một số trường hợp tràn dịch màng phổi mạn tính, sau khi chọc tháo hết dịch, người ta bơm chất gây dính màng phổi để chống tràn dịch màng phổi tái  lập .

+ Đối với mủ màng phổi, chọc tháo dịch màng phổi kết hợp rửa màng phổi .

1.2. Chống chỉ định

Không có chống chỉ định tuyệt đối, cần chú ý cân nhắc trong một số trường hợp sau:

– Bệnh nhân quá yếu, suy thở, suy kiệt nặng .

– Rối loạn chảy máu và đông máu .

– Nhồi máu cơ tim .

2. Chuẩn bị cho chọc hút dịch màng phổi

2.1. Chuẩn bị bệnh nhân

– Cần phải giải thích động viên bệnh nhân yên tâm và không để bệnh nhân quá đói khi làm thủ thuật .

– Đo mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở và cho bệnh nhân đi vệ sinh trước khi chọc hút dịch màng phổi .

– Bệnh nhân phải được chụp phổi, siêu âm, xét nghiệm máu . Để có chẩn đoán xác định trước khi làm tiểu thủ thuật .

– Tiêm tiền tê 15-30’ trước khi làm tiểu thủ thuật atropin 1/4mg x 2 ống. Tiêm bắp seduxen 5 mg x 1 ống tiêm bắp. Có thể không cần tiêm tiền tê, nếu tình trạng bệnh nhân yên tâm cho phép .

2.2. Chuẩn bị dụng cụ

– Trong khay vô trùng gồm có các dụng cụ: bơm kim tiêm 5ml và 10 ml, kim chọc dò chuyên biệt có van 3 chiều (nếu không có thì thay bằng kim tiêm thông thường loại 16G với 1 ống cao su và kìm kocher để thay cho van). Găng tay vô trùng, bơm tiêm 50 ml hoặc 100 ml. Khăn có lỗ và bông gạc vô trùng.
– Khay hữu trùng gồm có: kìm kocher, cồn iod 1% và cồn 700, ống nghiệm, thuốc tê: novocain 0,25% 5-10 ml hoặc lidocain 2%. Thuốc phòng khi cấp cứu: adrenalin, epersolon, coramin .

– Ngoài ra còn có bô hoặc khay quả đậu để đựng dịch, ghế ngồi, đèn chiếu sáng, túi oxy, máy hút, lò sưởi hoặc quạt .

3. Kỹ Thuật

– Tư thế bệnh nhân và thày thuốc:

+ Cho bệnh nhân ngồi kiểu cưỡi ngựa trên ghế tựa, 2 tay khoanh trên vai ghế, trán đặt vào tay để lưng cong ra sau. Có thể cho bệnh nhân ngồi trên giường, tay ôm một cái chăn bông để lưng cong ra sau. Trường hợp bệnh nhân mệt, có thể nằm ở tư thế Fowler .

+ Thủ thuật viên ngồi đối diện với mạn sườn định chọc dò. Trợ thủ viên đứng bên cạnh để phụ .

– Khám phổi để xác định vị trí đâm kim, thường là ở gian sườn 9 đường nách sau (nơi có túi cùng màng phổi). Sau đó sát trùng và chải săng có lỗ.
– Gây tê theo lớp: từ da, tổ chức dưới da, cơ, đến màng phổi lá thành .
– Chọc kim tại điểm gây tê, thẳng góc với thành ngực và đâm lướt bờ trên của xương sườn. Khi kim qua màng phổi lá thành sẽ có cảm giá sựt và nhẹ tay hơn. Hút thử nếu thấy có dịch thì hút tiếp khoảng 10-20 ml dịch để xét nghiệm (cần phải xét nghiệm ngay từ những bơm tiêm hút ra đầu tiên). Những xét nghiệm cần làm là: sinh hoá, tế bào, vi trùng. Sau đó nếu là hút tháo dịch thì có thể dùng máy hút hoặc bơm tiêm to. Phải hút chậm và đảm bảo hút kín bằng hệ thống van 3 chiều. Mỗi lần hút không quá 800 ml. Nếu cần có thể hút lại lần II trong ngày, sau 12h .

– Khi ngừng thủ thuật thì rút kim, sát trùng rồi day tại chỗ 1 lát, rồi băng lại. Theo dõi mạch huyết áp được thực hiện trước và sau khi làm thủ thuật .

4. TAI BIẾN VÀ CÁCH PHÒNG CHỐNG

– Chảy máu và đau tại chỗ: do chọc phải bó mạch thần kinh gian sườn. Muốn tránh, cần phải chọc kim lướt lên bờ trên xương sườn .

– Choáng ngất do lo sợ: đây là tai biến thường gặp, do bệnh nhân quá sợ hãi hoặc làm thủ thuật lúc bệnh nhân đang đói. Chỉ cần cho uống nước đường nóng, một lúc là khỏi .

– Truỵ tim mạch do sốc màng phổi: tai biến này xảy ra khi hút dịch quá nhanh và quá nhiều. Cần phải tuân theo đúng các thao tác kỹ thuật .
– Khi tai biến xảy ra, việc trước tiên phải xoa bóp tim ngoài lồng ngực, tiêm tráng adrenalin 0,001 vào tĩnh mạch, cho thở oxy, sau đó cấp cứu giống như ngừng tuần hoàn .

– Tràn khí màng phổi: thường do khí bị hút vào qua kim, do không đảm bảo hút kín. Cũng có thể do chọc vào phổi gây vỡ bóng khí thũng. Chỉ cần hút hết khí sau khi hết dịch .

-Phù phổi cấp: cũng có thể xảy ra khi hút dịch quá nhanh và nhiều .
– Chọc nhầm phủ tạng: vào phổi, vào tim, gan, ruột, lách và dạ dày. Cần nắm vững vị trí giải phẫu và làm thận trọng, tránh thô bạo .

– Nhiễm trùng: có thể gây ra mủ màng phổi. Cần phải tuân thủ đúng qui tắc vô trùng trong thủ thuật .

-Có thể còn gặp: khái huyết, tắc khí mạch, dị ứng thuốc, gãy kim.
– Rắc rối có thể gặp: trong khi đang hút, không thấy dịch ra nữa. Có thể là đã hết dịch, nhưng cũng có thể kim tiến vào quá đến nhu mô phổi hoặc do kim trôi ra đến thành ngực, hoặc có thể do tắc kim. Cần phải kiểm tra các tình huống này để điều chỉnh kim .