Căn hộ đã bàn giao thì thế chấp loại nào

Việc sở hữu và sử dụng chung cư chưa có sổ hồng không phải là trường hợp hiếm gặp. Nhiều người đặt ra câu hỏi vậy chung cư chưa có sổ hồng có vay được không? ? Bài viết sau của LuatVietnam sẽ giúp bạn giải đáp vấn đề này.

1. Thế nào là chung cư chưa có Sổ hồng?

Chung cư chưa có Sổ hồng là việc nhà chung cư chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo quy định pháp luật.

Hiện nay, việc chung cư chưa được cấp Sổ hồng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như:

- Chung cư chưa có đầy đủ giấy tờ pháp lý hoặc giấy tờ sở hữu căn hộ chung cư chưa rõ ràng và không đủ căn cứ để xin cấp sổ hồng;

- Công trình chung cư chưa hoàn thành để được cấp sổ hồng;

- Chung cư còn vướng các tranh chấp liên quan đến quy hoạch như như bị thu hồi, đền bù… hoặc tranh chấp về mua bán, tặng cho…;

- Chung cư mặc dù đã hoàn thành nhưng không đúng với thiết kế ban đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc đã đăng ký trong giấy phép xây dựng;

- Chủ đầu tư vẫn chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: Nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền thuế đất, thuế giá trị gia tăng, lệ phí môn bài…

Căn hộ đã bàn giao thì thế chấp loại nào
Chung cư chưa có sổ hồng có vay ngân hàng được không? (Ảnh minh họa)

2. Chung cư chưa có Sổ hồng có được vay ngân hàng không?

Về vấn đề này, tại khoản 2 Điều 118 Luật Nhà ở 2014 quy định như sau:

2. Giao dịch về nhà ở sau đây thì nhà ở không bắt buộc phải có Giấy chứng nhận:
  1. Mua bán, thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai;
  1. Tổ chức thực hiện tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương;
  1. Mua bán, thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở để phục vụ tái định cư không thuộc sở hữu nhà nước; bán nhà ở quy định tại khoản 4 Điều 62 của Luật này;
  1. Cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở;

đ) Nhận thừa kế nhà ở;

  1. Chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại được xây dựng trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở bao gồm cả trường hợp đã nhận bàn giao nhà ở từ chủ đầu tư nhưng chưa nộp hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở đó.
Các giấy tờ chứng minh điều kiện nhà ở tham gia giao dịch quy định tại khoản này thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Như vậy, căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 118 Luật Nhà ở 2014 nêu trên, chung cư chưa có sổ hồng vẫn có thể vay thế chấp nếu nó là chung cư hình thành trong tương lai.

3. Hồ sơ vay thế chấp ngân hàng với chung cư chưa có Sổ hồng thế nào?

Theo khoản 1 Điều 72 Nghị định 99/2015/NĐ-CP, trường hợp thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai thì phải có các giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 148 của Luật Nhà ở như sau:

- Trường hợp chủ đầu tư thế chấp một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải có:

  • Hồ sơ dự án;
  • Thiết kế kỹ thuật của dự án được phê duyệt;
  • Đã có Giấy chứng nhận hoặc quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

- Trường hợp chủ đầu tư thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai xây dựng trong dự án thì ngoài các giấy tờ trên, nhà ở thế chấp phải thuộc diện đã xây dựng xong phần móng và không nằm trong phần dự án hoặc toàn bộ dự án mà chủ đầu tư đã thế chấp;

- Trường hợp tổ chức, cá nhân thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình thì phải có giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về đất đai, Giấy phép xây dựng nếu thuộc diện phải có Giấy phép xây dựng.

- Trường hợp người thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai mua nhà ở của chủ đầu tư trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải có:

Xin bắt đầu bằng một vụ việc cụ thể liên quan đến việc nhận thế chấp bằng nhà chung cư hình thành trong tương lai (chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở) của Ngân hàng Indovina, đó là: Ngân hàng nhận thế chấp căn hộ số 403 Lô F Chung cư KCN Tân Bình, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú. TP.Hồ Chí Minh do Công ty Cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu dịch vụ & đầu tư Tân Bình làm chủ đầu tư. Đặc điểm của loại tài sản này là người mua chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và phải mất một khoảng thời gian rất dài để người mua nhà có được Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, song trên thực tế họ “được xem” như là đã có các quyền của chủ sở hữu nhà ở vì hợp đồng được ký kết hợp pháp.

Đây chỉ là một trong nhiều trường hợp trên thực tế, vì nhận bảo đảm bằng nhà chung cư hình thành trong tương lai hiện được xem là một các thức để “bảo đảm an toàn tín dụng” cho các ngân hàng thương mại. Vậy những vấn đề pháp lý nào cần quan tâm khi thực hiện giao dịch nêu trên?

1. Pháp luật hiện hành có khái niệm “tài sản bảo đảm là nhà chung cư hình thành trong tương lai” không?

Theo chúng tôi, luật thực định không có khái niệm “tài sản bảo đảm là nhà chung cư hình thành trong tương lai”, vì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 91 Luật Nhà ở năm 2005 thì một trong những điều kiện để xác lập các giao dịch về nhà ở, trong đó có thế chấp là cá nhân, tổ chức phải “có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật”. Quy định nêu trên cho thấy, mặc dù, quyền sở hữu nhà ở được xác lập đối với bên mua từ thời điểm chủ đầu tư bàn giao căn hộ chung cư cho bên mua, nhưng để được thế chấp chung cư đó thì bên mua phải có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở[2]. Từ giác độ thực tế (vật chất) và giác độ pháp lý thì khi đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu thì căn hộ chung cư được xác định là “tài sản đã hình thành” .

2. Xử lý như thế nào trong trường hợp ngân hàng đã nhận thế chấp căn hộ chung cư chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở?

Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2005, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất sẽ từ chối đăng ký thế chấp với lý do không đáp ứng đủ điều kiện theo luật định khi thế chấp căn hộ chung cư chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các ngân hàng thương mại sẵn sàng nhận thế chấp căn hộ chung cư chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Trước “bài toán” đó, để bảo đảm tính an toàn pháp lý, theo chúng tôi, Ngân hàng có thể áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật dân sự năm 2005 để đăng ký thế chấp dưới dạng quyền tài sản, vì pháp luật cho phép quyền tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó, Ngân hàng có thể ký kết hợp đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua nhà ở giữa bên thế chấp là chủ sở hữu nhà, vì người mua đã có quyền sở hữu nhà ở, nhưng còn thiếu Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Trong trường hợp này, hợp đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua nhà ở được đăng ký tại một trong các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm theo trình tự, thủ tục quy định tại Thông tư số 06/2006/TT-BTP ngày 28 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp và Thông tư số 03/2007/TT-BTP ngày 17 tháng 5 năm 2007 của Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 06/2006/TT-BTP ngày 28 tháng 9 năm 2006. Ngoài ra, để bảo đảm an toàn tín dụng, Ngân hàng nên ký hợp đồng uỷ quyền với chủ sở hữu căn hộ, trong đó có thoả thuận “ngân hàng được uỷ quyền tiếp tục thực hiện các thủ tục liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở” để có thể dễ dàng giám sát quá trình cấp Giấy chứng nhận, tránh tình trạng chủ sở hữu nhà sử dụng Giấy chứng nhận được cấp để tham gia các giao dịch về nhà chung cư. Sau khi nhà chung cư (tài sản thế chấp) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở thì Ngân hàng sẽ thực hiện thủ tục đăng ký thế chấp theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/BTP-BTNMT ngày 16 tháng 6 năm 2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày 13 tháng 6 năm 2006 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/BTP-BTNMT.

3. Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về thế chấp nhà chung cư trước yêu cầu của thực tiễn

Trước bất cập nêu trên của pháp luật và đòi hỏi của thực tiễn, đòi hỏi các cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu, hoàn thiện các quy định liên quan đến thế chấp nhà chung cư hình thành trong tương lai, cụ thể là:

- Bãi bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 91 Luật Nhà ở, vì hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có nhà ở (bao gồm nhà chung cư) mới bắt buộc phải có Giấy chứng nhận quyền sở hữu để được thực hiện các giao dịch (trong đó có thế chấp), còn các công trình xây dựng khác thì không bắt buộc trong hồ sơ đăng ký phải có Giấy chứng nhận quyền sở hữu;

- Bổ sung quy định cho phép chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà chung cư trong trường hợp quyền sở hữu đã được xác lập hợp pháp (thời điểm hợp đồng có hiệu lực pháp luật), mà không phụ thuộc nhà ở đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở;

- Bổ sung quy định để giám sát chặt chẽ “sự lưu thông”, “tình trạng pháp lý” của nhà chung cư trong thị trường tín dụng và thị trường bất động sản.

Theo chúng tôi, những sửa đổi, bổ sung nêu trên phù hợp với bản chất của pháp luật dân sự là quyền sở hữu của chủ sở hữu (quyền dân sự) có thể được xác lập từ một trong các căn cứ hợp pháp (ví dụ: bản án, quyết định của nhà nước, hợp đồng...), mà không phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu.

Từ những phân tích trên cho thấy, khi nhận thế chấp nhà chung cư chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu, các ngân hàng cần lưu ý để bảo đảm tính an toàn pháp lý của giao dịch và hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể phát sinh.

Hồ Quang Huy


[1] Theo quy định tại khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005 thì “quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc thời điểm giao nhận nhà ở theo thoả thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở”.

[2] Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 và Điều 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản thì từ ngày 01/8/2009, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở được thay bằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.