Công ty có thể có bao nhiêu thẻ cept

Theo quy định của Hiệp định CEPT/AFTA, hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu có Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) ASEAN mẫu D sẽ được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi. Vậy làm thế nào để xác định chính xác C/O hàng nhập khẩu để áp dụng đúng đối tượng là yêu cầu đặt ra nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho DN hoạt động XNK, đồng thời tạo sự công bằng cho hàng hóa trong nước, góp phần hạn chế nhập siêu. Gần đây, qua công tác kiểm tra, cơ quan Hải quan đã phát hiện nhiều trường hợp hàng hoá không đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ ASEAN cho thấy yêu cầu cần thiết của vấn đề này.

Theo Tổng cục Hải quan, qua kiểm tra cho thấy một số hàng hóa nhập khẩu không đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ ASEAN. Chẳng hạn như Giấy chứng nhận xuất xứ C/O ghi hàm lượng ASEAN rất khác nhau (40% và 60%), trong khi đây là mặt hàng cùng chủng loại, trong cùng một thời gian, của cùng một nhà sản xuất. Có trường hợp một C/O cấp cho nhiều sản phẩm có thành phần nguyên liệu rất khác nhau nhưng không ghi rõ tỷ lệ phần trăm hàm lượng ASEAN cho từng sản phẩm theo quy định của quy chế, mà ghi chung một tỷ lệ cho tất cả các sản phẩm. Trường hợp sai sót khác như sửa chữa C/O nhưng không xác nhận theo quy chế hay C/O được cấp trước ngày người XK xin cấp C/O(?)

Điểm đáng chú ý là khi cơ quan Hải quan Việt Nam nghi ngờ C/O và xác minh thì cơ quan cấp C/O của nước XK không trả lời hoặc trả lời rất chung chung, không có số liệu, tài liệu chứng minh.

Thực trạng trên cũng có nguyên nhân là do công tác quản lý thiếu chặt chẽ, việc xử lý sai phạm chưa nghiêm, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn hạn chế...

Chính vì vậy, những đề nghị mới đây của Bộ Tài chính đối với Bộ Công Thương cho thấy các cơ quan quản lý đã nhận thức rõ hơn về sự cần thiết tăng cường quản lý xuất xứ hàng hóa, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước, tạo môi trường cạnh tranh công bằng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa. Về mặt ngoại giao, theo ý kiến của Bộ Tài chính, để ngăn chặn tình trạng trên trong các cuộc họp liên quan của ASEAN, chúng ta cần bày tỏ yêu cầu các nước thành viên phải thực hiện đúng Hiệp định và Quy chế về xúât xứ hàng hóa, cũng như tích cực trả lời, cung cấp hồ sơ, tài liệu về tiêu chuẩn xuất xứ hàng hóa theo yêu cầu của nước có hàng hóa nhập khẩu.

Đối với quản lý trong nước, để kiểm soát chặt chẽ C/O đối với hàng hóa nhập khẩu, cần thống nhất chỉ đạo việc thực hiện và xử lý các vấn đề về xuất xứ hàng hóa đảm bảo đúng theo quy định của các Hiệp định, Quy chế xuất xứ liên quan và các quy định của pháp luật, không được vận dụng, giải thích tùy tiện. Đối với các lô hàng NK mà C/O có các dấu hiệu trên đây thì không chấp nhận cho hưởng ưu đãi về xuất xứ. Cùng với đó yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát về XNK, xuất xứ hàng hóa phải khắc phục ngay các sơ hở, yếu kém trên.

Thực tế cho thấy nếu không phát hiện những sai phạm C/O thì hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất ưu đãi không đúng đối tượng, từ đó dẫn đến bất bình đẳng đối với hàng hóa sản xuất trong nước, có thể gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của DN.

Một trong những phương tiện thúc đẩy hội nhập kinh tế của các nhóm khu vực trên toàn thế giới là thông qua các hiệp định thương mại tự do. ASEAN cũng nằm trong xu hướng đó. Để theo đuổi mục tiêu thiết lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất với luồng hàng hóa tự do, các quốc gia thành viên ASEAN (AMS) đã ký Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vào năm 2009.

ATIGA là kết quả của gần 2 thập kỷ nỗ lực hội nhập thương mại giữa AMS, bắt đầu với việc ký kết Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1993.

ATIGA, tiền thân của các FTA ASEAN +1, bao gồm cả Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) vừa có hiệu lực ngày 1/1, củng cố và hợp lý hóa các điều khoản trong Hiệp định về Biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) và các hiệp định ASEAN có liên quan khác, và mở rộng phạm vi của nó. ATIGA không chỉ cắt giảm thuế quan và có các điều khoản cụ thể về quy tắc xuất xứ (ROO), các biện pháp phi thuế quan (NTM), tạo thuận lợi thương mại và các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS). Ủy ban Điều phối thực hiện ATIGA (CCA) đã yêu cầu Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA) tiến hành đánh giá định lượng về tác động của ATIGA đối với thương mại nội khối ASEAN, như một đóng góp cho đánh giá chung của CCA về ATIGA.

Báo cáo này cho thấy, do hậu quả trực tiếp của ATIGA, thuế quan đối với thương mại nội khối ASEAN đã được giảm xuống 0 đối với hầu hết các dòng thuế. Đánh giá cho thấy các cam kết tự do hóa thuế quan theo ATIGA hầu hết đã đạt được. Những nỗ lực tự do hóa này đã đưa ASEAN đến gần hơn với mục tiêu trở thành một “thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất”, đây là một trong ba mục tiêu của AFTA được đề ra vào năm 1993. Nhưng ATIGA tồn tại trong bối cảnh AMS đơn phương tự do hóa cũng như tồn tại các ưu đãi thuế quan thay thế như các ưu đãi thuế quan được ghi trong Hiệp định Công nghệ và thông tin của Tổ chức Thương mại thế giới và các FTA ASEAN +1. Do đó, chỉ có một số dòng thuế hạn chế đưa ra biên độ ưu đãi (MOP) đủ cao để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng ATIGA khi giao dịch trong ASEAN vì nhiều AMS đã đặt mức thuế MFN bằng 0 hoặc ở mức thấp.

Hơn nữa, chi phí tuân thủ các điều khoản ATIGA làm giảm khả năng sử dụng do MOP thấp. Vì những lý do này, tác động của ATIGA chỉ giới hạn ở các ngành và sản phẩm mà MOP vẫn ở mức cao (do thuế MFN cao), chủ yếu là nông nghiệp, thực phẩm chế biến và ô tô. Trong những lĩnh vực này, việc sử dụng ATIGA ngày càng được ưu tiên theo thời gian. Một số ít sản phẩm thể hiện tác động tạo ra thương mại của ATIGA và tác động tạo thương mại có liên quan tích cực đến tỷ lệ sử dụng MOP và FTA. Khi AMS đơn phương tự do hóa hơn nữa nền kinh tế của họ và khi các hiệp định đa phương mới (ví dụ như RCEP) có hiệu lực, ATIGA cần được cập nhật để duy trì tính phù hợp.

Trọng tâm chính của cải cách phải là giảm chi phí tuân thủ, cùng với những thứ khác, tăng cường các quy tắc xuất xứ và thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ để giúp giảm chi phí và khuyến khích sử dụng. Điều này sẽ đảm bảo rằng ngay cả những tỷ suất lợi nhuận nhỏ mà ATIGA cung cấp vẫn tiếp tục có giá trị đối với các nhà giao dịch. Hơn nữa, những lĩnh vực mà ATIGA có hiệu quả nhất do MOP cao là những lĩnh vực có sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Vì vậy, ATIGA có thể tiếp tục là động lực quan trọng thúc đẩy sự tham gia của SME trong thương mại nội khối ASEAN. Nhưng để đảm bảo ATIGA thành công trong việc làm như vậy, thông tin cụ thể về các rào cản đối với việc sử dụng ATIGA của các công ty này cần được thu thập và các vấn đề cơ bản cần được giải quyết khi ASEAN tiến bộ trong việc làm sâu sắc và tăng cường hội nhập kinh tế khu vực thông qua ATIGA và các FTA ASEAN +1 và RCEP.