Dân tộc h'mông ở đâu

Miêu (tiếng Trung: 苗; bính âm: Miáo) là một nhóm dân tộc được công nhận là một trong 55 dân tộc thiểu số tại Trung Hoa. Người Miêu bao gồm các phân nhóm: H’Mông, Hmu, Hmao và Ghao Xong. Người Miêu bên ngoài Trung Hoa chủ yếu thuộc phân nhóm H’Mông và được gọi là người Mèo (ở Việt Nam), người Mẹo (ở Lào); tiếng Thái: แม้ว Maew hay ม้ง Mông). Ngày nay, họ tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ 5 tại Trung Hoa và cũng là một trong các dân tộc thiểu số có dân số đáng kể tại Việt Nam. Hai thuật ngữ, “Miêu” và “H’Mông” (“Mèo” và “H’Mông” tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong những nhóm thổ dân ở Trung Hoa.

Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Hoa, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Hoa khoảng 9,6 triệu. Ngoài phạm vi Trung Hoa họ còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gọi là Lào Sủng), Việt Nam và Myanmar do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guyana thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu. Tại Việt Nam, có khoảng trên 780.000 người H’Mông.

Nhóm ngôn ngữ này bao gồm 3 thứ tiếng và 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được, cùng với tiếng Bunu thuộc về nhánh Miêu trong hệ ngữ H’Mông-Miền (hay hệ Miêu-Dao). Người Trung hoa xưa phân biệt sắc tộc H’Mông ra làm hai nhóm: nhóm “đã thuần” (shu) và nhóm “hoang” (sheng). H’Mông “thuần” là nhóm đã được đồng hóa với người Hoa, còn “hoang” là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm H’Mông “hoang” ở vùng Tứ- xuyên, Vân-nam vào thế kỷ 17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất đường nét Caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh.

Dân tộc hmông ở đâu

Có thể là vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Số người giống Caucasian này còn lại tương đối ít vì các chính quyền liên tiếp của Trung Quốc luôn luôn tìm cách sát hại họ, dù họ đã trốn sang Lào, không nương tay. Sự kiện này đã làm các nhà truyền giáo bấy giờ bỏ công tìm hiểu thêm về nguồn gốc của người H’Mông. Nhưng sử sách của người Hoa lại hầu như muốn bỏ quên dân tộc này, chẳng có mấy sách cổ nhắc đến một cách rõ ràng. Ngay cả các nhà sử học người Hoa vẫn cho rằng người H’Mông là kẻ thù đầu tiên của Hoa tộc, và xuyên suốt lịch sử Trung Quốc kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Mãn Thanh, người H’Mông đã không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân Trung quốc.

Cuốn sách đầu tiên đề cập tương đối đầy đủ về giống H’Mông là cuốn “Histoire des Miao” (Lịch sử về Miêu tộc) do nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt tại Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều bộ tộc Hmong ở Bắc kỳ và Lào. Về sau, nhiều nhà sử học đồng ý rằng trong thời cổ đại giống H’Mông xuất phát từ châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á) thuộc khu vực cận Bắc Cực, rồi mới đến định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc H’Mông còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả 6 tháng.

Với người H’Mông thể hệ sau sống ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể chuyện là “nước cứng” và “cát trắng mịn”. Một chứng cứ khác cho thấy người H’Mông đã di chuyển xuống phía Nam từ khu vực cận Bắc Cực là nghi thức an táng “chỉ đường” của họ. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bỏ thế giới này để trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo, chỉ có toàn tuyết và băng giá. Số phận dân H’Mong bắt đầu gắn liền với sử Trung quốc có thể vào khoảng từ 3000- 1200 TCN.

Dân tộc hmông ở đâu

Khoảng 2700 TCN, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là Mãn Châu (Manchuria), Hà Bắc khi khí hậu ấm áp hơn cho phép, và người H’Mông đã định cư tại lưu vực sông Hoàng Hà ở vùng thượng Hà Nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hoa Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm tây, Sơn tây và Hà nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc này chỉ là bộ lạc miền núi chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hoa Yangshao này hòa nhập với bộ tộc Hoa Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn đông. Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của Trung hoa, đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy giờ.

Theo người Hoa thì Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người Hoa (khoảng TCN2697 ), liền tìm cách tiêu diệt luôn Xi Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc dể chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung quốc. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) mở đầu thời Ngũ đế, đồng thời với Họ Hồng Bàng của Việt sử. Người ta lại gán cho thời Hoàng đế kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đã phát minh ra được thuyền bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và đất nung, biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để đoán ngày tháng gieo trồng vv…

Hẳn nhiên Hoàng đế chỉ là một nhân vật huyền thoại của người Trung Quốc, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra được bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa – Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ đó cứ kéo dài mãi suốt lịch sử Trung quốc….

Nguồn: redsvn.net

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H’mông luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Dân tộc H’mông thuộc nhóm ngôn ngữ: H’mông - Dao. Người H’mông (từ Quí Châu - Vân Nam - Quảng Tây - Trung Quốc) di cư vào Việt Nam cách nay khoảng 300 năm, bằng nhiều đợt, rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối thế kỷ XIX. Người H’mông vào Việt Nam là do nguyên nhân: trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc H’mông), để giành quyền cai trị đất nước, làm người H’mông phải di cư đi khắp nơi.

Dân tộc H'mông cư trú gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập quán du mục nên một số người H'mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.

Các vùng người H'mông sinh sống thường có chợ phiên. Chợ phiên qui định họp 6 ngày một lần (có nơi 5 ngày một phiên). Quan hệ trao đổi hàng hoá trên cơ sở vật đổi lấy vật, dùng tiền tệ trao đổi rất ít. Chợ phiên vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi gặp gỡ các tầng lớp trong xã hội. Trong đó, có một phiên chợ mang nét đặc sắc văn hóa của người H’mông, đó là “Chợ tình”. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần. Chợ tình Sapa, là nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc này.

Người H’mông phân chia thành 4 nhóm: H'mông Hoa (H'mông Lềnh), H’mông Đen (H’mông Dú), H’mông Xanh (H’mông Chúa), H’mông Trắng (H’mông Đu). Tuy có 4 nhóm H’mông khác nhau, nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác nhau giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.

Trang phục cổ truyền của người phụ nữ H’mông gồm: váy, áo xẻ ngực, yếm lưng, có tấm vải che phía trước và vuông vải nhỏ che lưng phía sau, thắt lưng, khăn quấn đầu, chân vấn xà cạp. Váy hình nón cụt, xếp nhiều nếp xoè rộng.

+ Phụ nữ H’mông Trắng mang trang phục váy trắng, áo xẻ ngực có thêu hoa văn ở cánh tay và yếm lưng. Phụ nữ H’mông trắng cạo tóc xung quanh và để chỏm lớn ở đỉnh đầu, quấn khăn vành rộng.

+ Phụ nữ H’mông Hoa mang trang phục váy màu chàm, có thêu hoa ở gấu váy. Mặc áo xẻ nách, trên vai và ngực có cạp thêm vải màu, thêu hình hoa văn con ốc. Phụ nữ H’mông Hoa để tóc dài quấn quanh đầu, sau đó còn quấn thêm tóc giả.

+ Phụ nữ H’mông Đen mang trang phục váy màu chàm, có in hoa văn ở gấu, ngắn hơn váy Hmông Hoa, mặc áo xẻ giữa ngực, thêu hoa văn ở cánh tay và hò áo.

+ Phụ nữ Hmông Xanh mang trang phục váy hình ống màu chàm, gấu váy thêu hoa văn hình chữ thập trong hình các ô vuông, áo mở chếch ngực xẻ thẳng về bên trái, cài một cúc, cánh tay áo đắp thêm những miếng vải màu đỏ và cổ tay áo có thêu hoa văn. Người H’mông Xanh, con gái để tóc xoã ngang vai, khi lấy chồng mới quấn tóc lên đỉnh đầu và dùng lược móng ngựa cặp ngược tóc về phía trước, trùm khăn trên đầu.

Ngày nay, trang phục phụ nữ H’mông có những thay đổi: phụ nữ H’mông Sa Pa mặc quần ống ngắn và hẹp, áo khoác ngoài kép xẻ ngực cổ cứng thiêu hoa văn. Phụ nữ H’mông Trắng Sơn La mặc quần ống dài, mặc áo cánh trắng bên trong, măc áo cổ truyền bên ngoài. Phụ nữ H’mông Hoa mặc áo hở nách.

Người H’mông có những đồ trang sức: khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, nhẫn đồng, nhẫn bạc, nhẫn vàng. Nếu trên tay có 2 nhẫn là người đó đã có vợ hoặc có chồng. Phụ nữ thích dùng chiếc ô màu sắc đẹp, vừa có tác dụng che mưa, che nắng và làm vật trang sức cho mình, tạo nên nét duyên dáng.

Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân.

Hôn nhân gia đình của người H’mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh niên nam nữ được lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện ở tục “cướp vợ” trước đây. Người thanh niên cùng bạn bè cướp người con gái yêu thích về ở nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Vợ chồng người H’mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ...

Người H’mông có một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú về phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và chữ viết, tiếng nói, văn hoá nghệ thuật.

Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc H’mông là một trong những dân tộc ít bị mai một hơn về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Văn hoá H’mông là một thành tố văn hoá Việt Nam, bản sắc văn hoá độc đáo của họ đã đóng góp và làm phong phú cho nền văn hoá Việt Nam. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, để phát triển “hòa nhập” mà không bị hòa tan, mất bản sắc, thì việc bảo tồn văn hóa dân tộc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tâm huyết, bền bỉ, lâu dài. Có như thế những giá trị văn hóa sẽ mãi mãi được gìn giữ và phát huy.

Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ là một trong những Bảo tàng đã và đang thực hiện việc bảo tồn văn hóa dân tộc thông qua công tác nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày về trang phục truyền thống của phụ nữ các dân tộc Việt Nam; qua đó giới thiệu rộng rãi đến công chúng trong và ngoài nước sự đa dạng của nên văn hóa dân tộc Việt Nam.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 02 năm 2017

Nguyễn Thị Kim Voanh

TRANG PHỤC NỮ CỦA NGƯỜI H'MÔNG PHỤC VỤ KHÁCH CÓ NHU CẦU CHỤP ẢNH TẠI BẢO TÀNG PHỤ NỮ NAM BỘ

Dân tộc hmông ở đâu

Dân tộc hmông ở đâu
Dân tộc hmông ở đâu

Dân tộc hmông ở đâu
Dân tộc hmông ở đâu