Đó là khẳng định của ông Nguyễn Toàn Thắng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam khi trả lời phỏng vấn Thời báo Ngân hàng xung quanh vấn đề về dịch vụ thẻ. Ông cho biết: tương ứng với mỗi loại sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng, ngân hàng cũng tính toán, xác định loại, mức phí phù hợp trên cơ sở cân đối với chi phí và phân khúc thị trường, khách hàng. Khi sử dụng dịch vụ nào thì khách hàng chỉ phải trả phí cho dịch vụ đó. Thị trường thẻ tại Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là dịch vụ thẻ. Xin ông cho biết về những kết quả nổi bật trong phát triển của dịch vụ thẻ? Nhìn lại quá trình trên 20 năm phát triển dịch vụ thẻ ở Việt Nam vừa qua, có thể thấy dịch vụ thẻ đã có những phát triển vượt bậc. Nếu như năm 1996, khi Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam bắt đầu cung ứng dịch vụ thẻ, mới chỉ có vài máy ATM với vài trăm chủ thẻ thì đến nay đã có 53 tổ chức phát hành và thanh toán thẻ với tổng số lượng phát hành trên 100 triệu thẻ, mạng lưới ATM của các ngân hàng đã được mở rộng (tới nay đã có trên 17.000 ATM trên toàn quốc); các ATM đã được kết nối liên thông, khách hàng có thể sử dụng thẻ của ngân hàng này để rút tiền và thực hiện một số dịch vụ thanh toán trên ATM của ngân hàng khác. Sử dụng thẻ đã trở thành một thói quen và phương tiện thanh toán thông dụng, được sử dụng rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội. Gần đây dư luận có phản ánh mỗi thẻ ghi nợ nội địa (ATM) có khoảng 20-25 loại phí dịch vụ cơ bản của ngân hàng, tuy nhiên người dùng không được thông tin đầy đủ về các loại phí này. Vậy, ông có thể giải thích rõ hơn về các loại phí này? Và việc các ngân hàng thu quá nhiều loại phí như vậy có đúng quy định không, thưa ông? Thời gian qua, để đáp ứng nhu cầu giao dịch, thanh toán ngày càng cao của người dân và doanh nghiệp, các ngân hàng đã tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ mới, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ thanh toán, tích hợp nhiều dịch vụ giá trị gia tăng đối với dịch vụ thẻ (mobile banking, internet banking, SMS banking,...).
Tương ứng với mỗi loại sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng, ngân hàng đã phải tính toán, xác định loại, mức phí phù hợp trên cơ sở cân đối với chi phí và phân khúc thị trường, đối tượng khách hàng. Bởi vậy, nếu nhìn vào biểu phí dịch vụ thanh toán thẻ mà các ngân hàng phải công khai cho khách hàng thì bao gồm nhiều loại phí cho nhiều loại dịch vụ khác nhau. Tuy nhiên, khách hàng không phải trả cho tất cả các loại phí đó mà chỉ phải trả đối với loại dịch vụ mà mình sử dụng. Và việc ngân hàng thu phí khi cung ứng dịch vụ cũng là phù hợp với pháp luật để bù đắp phần nào chi phí đầu tư. Đối với phí ATM, theo Thông tư 35/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định, thông thường mỗi thẻ ATM chỉ chịu chủ yếu một vài loại phí như: rút tiền tại ATM, chuyển khoản nội mạng hoặc ngoại mạng, in sao kê... Thực tế vẫn còn ý kiến lo ngại về tính an toàn, bảo mật, chất lượng dịch vụ thẻ như sự cố ATM bị hết tiền, nghẽn mạng, nhả tiền rách… Vậy ông có thể cho biết việc đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật và công nghệ để đảm bảo an toàn, bảo mật trong thanh toán thẻ được các ngân hàng thực hiện ra sao? Thời gian qua, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước thường xuyên quan tâm, chỉ đạo các ngân hàng thương mại trong việc nâng cao tính an toàn, bảo mật, chất lượng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thẻ. Tại Hội nghị thường niên Hội thẻ ngân hàng Việt Nam năm 2017 vừa qua, các ngân hàng thương mại đã tập trung bàn về các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn trong dịch vụ thẻ, phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an để phòng, chống tội phạm thẻ. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại đã thường xuyên quan tâm đầu tư, đổi mới công nghệ, từng bước hoàn chỉnh hạ tầng công nghệ thông tin cũng như hạ tầng an ninh, bảo mật trong thanh toán thẻ; tăng cường thông tin đến khách hàng về các thủ đoạn mới của tội phạm thẻ... Theo ông, ngành Ngân hàng cần có những định hướng, giải pháp nào để nâng cao chất lượng dịch vụ, công nghệ trong hoạt động thanh toán, đặc biệt là dịch vụ thanh toán thẻ? Theo tôi, để nâng cao chất lượng dịch vụ, công nghệ trong hoạt động thanh toán, đặc biệt là dịch vụ thẻ, ngành Ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách nhằm phát triển thanh toán không dùng tiền mặt nói chung, thanh toán thẻ nói riêng, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người dân và xã hội; phải chú trọng xây dựng, phát triển hạ tầng, công nghệ thanh toán, nhất là ứng dụng những công nghệ mới để gia tăng tiện ích, bảo đảm cho khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng, tiện lợi và an toàn; tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho các hệ thống thanh toán điện tử, thanh toán thẻ; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và bảo vệ người tiêu dùng trong thanh toán điện tử, thanh toán thẻ… Xin cảm ơn ông! ThS. NGUYỄN THỊ QUỲNH CHÂU (Khoa Tài chính Ngân hàng -Trường Đại học Văn Lang)
Thẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hóa dịch vụ tại các điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng, rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hay các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ còn được dùng để thực hiện nhiều dịch vụ khác thông qua hệ thống giao dịch tự động ATM như chuyển khoản, tra vấn thông tin tài khoản, thông tin các khoản chi phí sinh hoạt,… Thẻ là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến và hiện đại. Thẻ ra đời không những đạt được hai mục tiêu là tiện lợi và an toàn cho việc thanh toán mà còn thể hiện được tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hóa và toàn cầu hóa. 2. Cơ sở lý thuyếtThẻ được phân chia thành các loại sau: a. Phân loại theo công nghệ sản xuất:
Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ có cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính. b. Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ:
Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm trả.
Thẻ trả trước (Prepaid Card): đây là loại thẻ mới được phát triển trên thế giới, khách hàng chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền sẽ được ngân hàng phát hành thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của loại thẻ này giống như các thẻ khác, chỉ có điều thẻ này được giới hạn trong số tiền có trong thẻ và chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định tùy vào quy định của mỗi ngân hàng, tức là hạn mức thẻ không có tính chất tuần hoàn. c. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ để thanh toán và được quy đổi theo tỷ giá của đồng ngoại tệ sử dụng. d. Phân loại theo chủ thể phát hành:
3. Thực trạng sử dụng thanh toán thẻ tại các NHTM hiện nayThị trường thẻ ngân hàng Việt Nam những năm qua được đánh giá có tốc độ phát triển mạnh. Đây là một tín hiệu rất tốt góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt. Tại Việt Nam, thẻ thanh toán đã được biết đến hơn 10 năm trước đây, nhưng phải đến năm 1998 thị trường thẻ mới trở nên sôi động khi có sự tham gia của nhiều ngân hàng. Bởi lợi nhuận từ dịch vụ này rất hấp dẫn đối với các ngân hàng và đó chính là cơ hội để các NHTM Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh. Đây cũng là một trong những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại giúp Việt Nam đi tắt đón đầu trong dịch vụ ngân hàng, giúp hoạt động ngân hàng trong nước có sức mạnh cạnh tranh về công nghệ với các ngân hàng nước ngoài trong lĩnh vực mới mẻ này. Tuy nhiên, đây cũng là dịch vụ đem lại không ít những khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam, như: khó khăn về kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ nói chung và bản thân ngân hàng nói riêng đã gây nhiều trở ngại đối với việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh thẻ đạt tới những giá trị tiềm năng vốn có của nó, buộc ngân hàng phải không ngừng tự mình nhìn lại và đưa ra các biện pháp giải quyết để có thể đứng vững và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Thẻ ngân hàng tiếp tục là phương tiện thanh toán đa dụng, tiện ích, được các NHTM chú trọng phát triển, có tốc độ phát triển nhanh chóng. Theo Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước - NHNN), cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Số lượng và giá trị giao dịch thanh toán nội địa của thẻ ngân hàng tiếp tục tăng, trong quý I năm 2019 đạt 65 triệu giao dịch với tổng số tiền giao dịch là 171 nghìn tỷ đồng (tăng 18,45% về số lượng và 18,82% về giá trị so với cùng kỳ của năm 2017). Các NHTM đã tích hợp thêm nhiều tính năng vào thẻ ngân hàng để sử dụng thanh toán hàng hóa, dịch vụ; đồng thời, nâng cao chất lượng dịch vụ, độ an toàn thanh toán thẻ. Thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động đạt được kết quả đáng ghi nhận, thu hút số lượng lớn khách hàng sử dụng. Trong quý I năm 2019, số lượng và giá trị giao dịch tài chính qua kênh Internet tăng 68,8% và 13,4% so với cùng kỳ năm 2018; số lượng và giá trị giao dịch tài chính qua kênh điện thoại di động tăng 97,7% và 232,3 % so với cùng kỳ năm 2018. Tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác đang có xu hướng tăng lên. Dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển đã giúp NHTM có thêm kênh huy động vốn và phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng với nhiều tiện ích khác nhau cung cấp cho khách hàng. Để gia tăng lượng giao dịch không dùng tiền mặt, các ngân hàng hiện nay đang đẩy mạnh phát triển hệ thống chấp nhận thẻ như máy ATM, máy POS, mạng lưới thanh toán hàng hóa dịch vụ sử dụng thẻ, các tiện ích dịch vụ,… Ngoài rút tiền mặt, chủ thẻ có thể dễ dàng sử dụng thẻ trong các thanh toán giao dịch hóa đơn điện thoại, internet, trả phí bảo hiểm, chuyển khoản thanh toán,… Tiện ích của thẻ ATM không chỉ giúp chủ thẻ quản lý được tiền, không đem theo một lượng tiền lớn để thanh toán hàng hóa dịch vụ, tiết kiệm được tiền,… mà còn giúp họ tiết kiệm chi tiêu khi các ngân hàng phát hành thẻ phối hợp với những đơn vị bán hàng giảm giá hàng hóa cho khách hàng sử dụng thẻ. Ngoài ra, khách hàng sử dụng thẻ còn được bảo hiểm trong các trường hợp cụ thể, như: khi rút tiền từ máy ATM bị cướp; khi thanh toán mua hàng hóa nhưng bị mất hàng ngay sau khi mua hàng; khi mua vé máy bay bị trễ giờ bay; tai nạn du lịch toàn cầu; tư trang trong chuyến đi; trách nhiệm trong chuyến đi; gia sản khi vắng nhà; mua sắm; thất lạc ví;… Quy mô dân số trẻ không ngừng mở rộng cùng với sự phát triển của công nghệ và xu hướng thương mại điện tử ngày càng thịnh hành là những yếu tố cơ bản khiến thị trường thẻ thanh toán ở Việt Nam, cả thẻ tín dụng (credit card) và thẻ ghi nợ (debit card) ngày càng được sử dụng rộng rãi. Bên cạnh việc phát triển số lượng thẻ, các NHTM ngày càng quan tâm đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ bằng việc tăng khả năng thanh toán cho chủ thẻ thông qua phát hành thẻ thanh toán đồng thương hiệu và đa ứng dụng có liên kết với các tổ chức khác, như trường học, hãng taxi, hãng hàng không, siêu thị…; chú trọng tăng độ an toàn, bảo mật của thẻ thanh toán như ứng dụng công nghệ Chip trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, như phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chip chuẩn EMV. a. Những tiện ích của sản phẩm thẻ đa năng hiện đại ATM có nhiều chức năng, mang đến nhiều tiện ích giúp con người tiết kiệm thời gian và công sức hơn. Một chiếc thẻ ATM đa năng đúng nghĩa có thể giúp bạn:
b. Những hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những tiện ích trên, hoạt động thanh toán thẻ thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:
Phần lớn các hóa đơn hay những tờ tra cứu số dư đã bị vứt bừa bãi, mặc dù đa phần các ngân hàng đều đặt thùng rác ngay trong buồng ATM. + Tình trạng nói chuyện điện thoại trong khi vừa rút tiền hay chen ngang của những người giao dịch thẻ còn diễn ra phổ biến. Lợi dụng khi khách hàng tập trung rút tiền tại máy ATM, một số kẻ gian đã nhìn trộm mật khẩu (hay còn gọi là mã PIN - viết tắt từ Personal Identification Number), nhằm thực hiện những hành vi gian trá, vi phạm pháp luật. 4. Kết luậnĐể đẩy mạnh phát triển thanh toán thẻ trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp như sau:
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
|