Giáo dục học mầm non là gì

1. Khái niệm giáo dục mầm non là gì?

Giáo dục học là một khoa học về việc giáo dục con người – có nhiệm vụ chỉ ra bản chất và nêu ra các quy luật của quá trình giáo dục con người; xác định mục tiêu giáo dục; quy định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục cho trẻ em ở các đối tượng khác nhau nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối ưu trong những điều kiện, xã hội nhất định.

Giáo dục học mầm non là một chuyên ngành của giáo dục học, có nhiệm vụ xây dựng lí luận và tổ chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em ở độ tuổi từ 0 – 6 tuổi (trước tuổi đến trường phổ thông).

Dựa trên cơ sở khoa học mang tính quy luật chung của giáo dục học và tính đến những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lí của trẻ để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em ở lứa tuổi này, giáo dục học mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu, xác định mục tiêu, quy định nội dung, chỉ dẫn phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục trẻ em ở lứa tuổi này một cách khoa học để đạt được hiệu quả giáo dục tối ưu cho trẻ em trong độ tuổi trước tuổi đến trường phổ thông.

2. Đối tượng của giáo dục mầm non

Con người là đối tượng của nhiều ngành khoa học (triết học, văn học, sử học, xã hội học, sinh lí học, tâm lí học…) trong đó con người cũng chính là đối tượng của giáo dục.

Giáo dục học mầm non nghiên cứu bản chất của quá trình giáo dục, quá trình hình thành con người có mục đích, có kế hoạch, một hoạt động tự giác tác động đến việc hình thành nhân cách trẻ em của nhà giáo dục hoặc tổ chức giáo dục.

Trên cơ sở đó, giáo dục học mầm non xác định mục đích, mục tiêu giáo dục, quy định nội dung, chỉ ra phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thích hợp nhằm tổ chức tối ưu quá trình hình thành con người trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Vậy đối tượng của giáo dục học mầm non chính là quá trình giáo dục trẻ em từ 0 – 6 tuổi.

Xem thêm:

  • 50+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Giáo Dục Mầm Non Và Tiểu Học
  • Download đề tài và mẫu luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục hay

1. Giáo dục mầm non là gì?

Trước khi đi sâu vào tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến giáo dục mầm non hay việc nội dung của giáo dục mầm non và phương pháp của giáo dục mầm non. Thì trong nội dung mục 1 này tác giả sẽ gửi đến quý bạn đọc các nội dung liên quan đến giáo dục mầm non là gì? Giáo dục học là gì?

Do đó, giáo dục học được định nghĩa dưới góc độ pháp lý là một khoa học dùng để giáo dục về việc giáo dục con người – có nhiệm vụ chỉ ra bản chất và nêu ra các quy luật của quá trình giáo dục con người; xác định mục tiêu giáo dục; quy định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục cho trẻ em ở các đối tượng khác nhau nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối ưu trong những điều kiện, xã hội nhất định.

Bên cạnh khái niệm chung được nhắc đến ở trên về giáo dục thì pháp luật hiện hành cũng có đưa ra định nghĩa về giáo dục học mầm non là một chuyên ngành của giáo dục học, có nhiệm vụ xây dựng lí luận và tổ chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em ở độ tuổi từ 0 – 6 tuổi (trước tuổi đến trường phổ thông).

Dựa trên cơ sở khoa học mang tính quy luật chung của giáo dục học và tính đến những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lí của trẻ để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em ở lứa tuổi này, giáo dục học mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu, xác định mục tiêu, quy định nội dung, chỉ dẫn phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục trẻ em ở lứa tuổi này một cách khoa học để đạt được hiệu quả giáo dục tối ưu cho trẻ em trong độ tuổi trước tuổi đến trường phổ thông.

Theo như quy định của pháp luật hiện hành thì đối tượng của giáo dục hiện nay đó là con người. Và con người cũng được biết đến là đối tường của rất nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau. Trong đó, giáo dục học mầm non được biết đến là nơi định hướng nhận thức của con người ngay từ khi còn nhỏ. Đồng thời cũng được xem là nơi để nghiên cứu bản chất của quá trình giáo dục, quá trình hình thành con người có mục đích, có kế hoạch, một hoạt động tự giác tác động đến việc hình thành nhân cách trẻ em của nhà giáo dục hoặc tổ chức giáo dục.

Xem thêm: Trường bán công là gì? Điều lệ, đặc điểm, ưu nhược điểm?

Đề cương môn giáo dục học mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.69 KB, 32 trang )

GIÁO DỤC HỌC MẦM NON

1


CHƯƠNG I: GIÁO DỤC HỌC MẦM NON LÀ 1 KHOA HỌC
CÂU 1: Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học mầm non là gì ?
Trả lời:
Giáo dục học mầm non là một khoa học nghiên cưú sâu về bản chất và tính quy luật của
quá trình giáo dục trẻ em ở lứa tuổi mầm non, đó là một quá trình tác động sư phạm có mục
đích , có kế hoạch ,có hướng của nhà giáo dục hoặc tổ chức giáo dục đến trẻ em nhằm thực
hiện mục tiệu và nhiệm vụ giáo dục trẻ góp phần hình thành và phát triển nhân cách trẻ em
mầm non,Trên cơ sở đó , giáo dục học mầm non xác định mục tiêu giáo dục mầm non , quy
định nội dung, chỉ ra phương pháp , hình thức tổ chức giáo dục thích hợp nhằm tối ưu hóa
quá trình hình thành nhân cách trẻ lứa tuổi mầm non trong những điều kiện và hoàn cảnh xã
hội chủ nghĩa. Từ các ý trên cho thấy đối tượng của GDH mầm non chính là quá trình giáo
dục trẻ em ở lứa tuổi mầm non.
Câu 2: Nhiệm vụ của giáo dục học mầm non
Trả lời:
- GDH mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu về lí luận và thực tiễn giáo dục trẻ em lứa tuổi
mầm non
- GDH mầm non nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của quá trình giáo dục trẻ em ở độ tuổi
mầm non trong tính tổng thể , tính toàn vẹn của nócungx như các bộ phận, các yếu tố của quá
trình đó để nhận thức bản chất ,cấu trúc và tính quy luật của quá trình giáo dục trẻ em .Trên
cơ sở đó xây dựng mục tiêu nguyên tắc , nội dung phương pháp, phương tiện và hình thức tổ
chức các hoạt động giáo dục trẻ em ,xác định các lực lượng và điều kiện để quá trình giáo duc
trẻ em mầm non được thực hiện một cách có hiểu quả.
-Trong xu thế phất triển và hội nhập GDH mầm non luôn luôn phải cập nhập , nghiên cứu, bổ
sung hoàn thiện thêm các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn giáo dục trẻ em mầm non
nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của thời đại của xã hội.
Câu 3: Quá trình giáo dục học mầm non là gì ?


Trả lời:

2


Quá trình giáo dục mầm non là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách trẻ em lứa tuổi
mầm non, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch thông qua các hoạt động giáo
dục cùng nhau giữa nhà giáo dục với trẻ nhằm giúp trẻ chiếm lĩnh những kinh nghiệm lịch sử
của xã hội loài người.
Trong quá trình giáo dục luôn lấy trẻ em làm trung tâm, trẻ vừa là khách thể vừa là chủ thể
của quá trình hoạt động giáo viên giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện, cơ
hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động tìm tòi khám phá thế giới xung quanh từ đó lĩnh hội
được những kinh nghiệm lịch sử của xã hội.
Quá trình giáo dục mầm non bao gồm nhiều thành tố như : Mục tiêu gd mầm non, nội dung
gdmn, phương pháp gdmn, phương tiện gdmn hình thức gdmn, nhà gd, người đươc giáo dục
điều kiện và kết quả gdmn, tất cả các yêu tố này nằm trong một khối thông nhất bổ sung , hỗ
trợ nhau.
Câu 4: Phương tiện của giáo dục học mầm non là gì?
_Phương tiện giáo dục mầm non là những công cụ được giáo viên và trẻ sử dụng trong quá
trình giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục trẻ mầm non. Nhờ có phương tiện giáo dục
mà quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và trẻ đuwocj đảm bảo và đạt hiệu quả giáo dục
mong muốn.
Câu 5: Phương pháp giáo dục mầm non là gì?
Trả lời:
Phươnng pháp gdmn là cachs thức, con đường hoạt động hợp tác cùng nhau giữa giáo
viên và trẻ nhằm thực hiện mục tiêu , nhiệm vụ giáo dục mầm non.
Câu 6: Tổ chức hoạt động theo hương tích hợp là gì ?
Trả lời:
Tổ chức hoạt động theo hướng tích hợp theo chủ đề là quá trình lồng ghép, đan cài, xen kẽ
các hoạt động giáo dục theo chủ đề một cách có mục đích , có kế hoạch , có định hướng dưới


nhiều hình thức nhằm dẫn dắt trẻ vào hoạt động một cách chủ độngnhằm đạt được mục tiêu
và nhiệm vụ giáo dục tích hợp đã đặt ra cho trẻ mầm non.Trong quá trình thực hiện tích hợp
giáo n nm3viên là người tổ chức, hướng dẫn , tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ trong các hoạt
3


động còn trẻ tích cực tham gia vào hoạt động một cách chủ động , sang tạo tìm hiểu khám
phá môi trường xung quanh thông qua các chủ đề gần gũi với trẻ.
HiỆN nay, hoạt động giáo dục mầm non theo hướng tích hợp theo chủ để nhằm hình thành
cho trẻ những phẩm chất chung, những năng lực cần thiết giúp trẻ có khả năng giải quyêt
những tình huống có ý nghĩa với trẻ trong cuộc sống hang ngày, giúp trẻ hòa nhập với cộng
đồng và chuẩn bị tâm thế vững vàpoewng cho trẻ vào lớp 1.
PHẦN II NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
Câu 1: khái niệm nguyên tắc giáo dục học là gì? Có những nguyên tắc giáo dục nào?
Trả lời
Nguyên tắc giáo dục mầm non là những luận điểm cơ bản và bao trùm mang tính quy luật mà
nhà giáo dục phải tuân theo khi chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ giáo dụcnhawmf đảm bảo
mục đích giáo dục mầm non và hiệu quả của quá trình giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non
Nguyên tắ giáo dục mầm non mang tính chất chỉ đạo, định hướng và tính bắt buộc
trong quá trình giáo dục trẻ. Có 2 loại nguyện tắc giáo dục đó là nguyên tắc giáo dục
mang tính vĩ mô và nguyên tắc giáo dục mang tính vi môtrong đó nguyên tắc vĩ mô chỉ
đạo hoạt động của hệ thống giáo dục mầm non và nguyên tắc vi mô chỉ đạo quá trình
hình thành nhân cách trẻ diễn ra trong quá trình tương tác giữa người lớn và trẻ.
Nguyên tắc giáo dụ màm non cần luôn luôn có những thay đổi để phù hợp với yêu cầu
phát triển của kinh tế xã hội.
* Các nguyên tắc giáo dục mần non
+ Nguyên tắc lấy trẻ làm trung tâm , hát huy tính tích cực của trẻ trong hoạt động.Giáo viên
là người tổ chức, hướng dẫn tạo cơ hội cho trẻ hoạt động
+Giáo dục trẻ thông qua môi trường và tạo môi trường hoạt động đa dạng hấp dẫn cho trẻ
+Giáo dục trẻ theo hướng tích hợp


+ Đảm bảo tính hệ thống, tính liên tục, thường xuyên , tính vừa sức…nhằm giáo dục và phát
triển toàn vẹn nhân cách trẻ.
+ Cá biệt hóa trong giáo dục mầm non.
+ Xã hội hóa giáo dục mầm non.
Câu 2: Hãy làm rõ nguyên tắc giáo dục” lấy trẻ làm trung tâm và phát huy tính tích cực
của trẻ trong hoạt động” ở trường mầm non. Liên hệ thực tiễn ở địa phương.
a) Ý nghĩa
4


Việc lấy trẻ làm trung tâm và luôn coi trẻ là chủ thể tích cực trong hoạt động của trẻ và giáo
viên tạo điều kiện, cơ hội , môi trường thuận lợi cho trẻ bộc tính tự lập , tự quyết định những
điều trẻ muốn, trẻ thích và theo suy nghĩ của trẻ ,phát huy tính tích cực trong hoạt đông là
một nguyên tắc cơ bản mang tính định hướng quan trọng trong giáo dục mầm non từ đó giúp
trẻ chiếm lĩnh được tri thức mới và nắm được các kĩ năng mới phát triển được các năng lực
và phẩm chất tâm lý. Phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ cho trẻ.
b) Nội dung
Tư tưởng chính của nguyên tăc này nhấn mạnh quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ phải hướng
vào đứa trẻ , vì đứa trẻ. Giáo dục phải xuất phát từ nhu cầu, hứng thú của trẻ. Trong các hoạt
động chăm sóc giáo duc trẻ , giáo viên không được áp đặt ý muốn chủ quan của mình lên trẻ,
trẻ pahir được xem là chủ thể tích cức trong mọi hoạtddoongj của mình,giáo viên chỉ giữ vai
trò là người tổ chức hướng dẫn , tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi để trẻ phát huy tính tụ lập, tự
quyết trong các hoạt động từ đó giúp trẻ chiếm lĩnh các kinh nghiệm lịch sử cảu xã hội giúp
hình thành và pát triển toàn diện nhân cách trẻ.
c) Thưc hiện, vận dụng
- Khi thực hiện vận dụng nguyên tác ày vào quá trình giáo dục nhà giáo dục cần phải:
+ Coi trọng, tôn trong suy nghĩ , ý tưởng và quyết định của trẻ, không áp đặt trẻ.
+ Tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội để trẻ bộc lộ phat shuy tính tự lấp và óc sáng tạo.
+ Luôn đặt mình vào vị thế của trẻ để đồng cảm và yêu thương trẻ
+ Quan hệ giữa cô và trẻ là sự đồng cảm , yêu thương, là bạn bè cùng hợp tác với nhau.


+ Luôn bao quát, giúp đỡ trẻ, tôn trọng cá nhân trẻ.
+ Coi trọng việc tạo điều kiện , môi trường hấp dẫn giúp trẻ sang táo, chủ động trong các hoạt
động.
+ Giáo viên là người khơi gợi tiềm năng của trẻ, giúp đỡ đưa ra lời khuyên trong những tình
huống trẻ không thể tự giải quyết được.
+Hướng dẫn trẻ tham gia các hoạt động đều dựa trên nhu cầu, mong muốn, hứng thú, nguyện
vọng của trẻ, giáo viên không áp dặt hoặc cưỡng bức trẻ làm khiến trẻ thụ động. Mọi hoạt
động của trẻ phải do trẻ, trẻ là chủ thể tích cực của hoạt động.
** Liên hệ thực tiễn
Tại trường mầm non Nụ cười nơi tôi đang làm việc, việc giáo dục trẻ được dựa trên nguyên
tắc lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tinh stichs cực của trẻ trong hoạt động” theo đó mọi hoạt
đông của các con được tổ chức dựa trên mong muốn, nhu cầu của trẻ, trẻ được lựa chọ góc
chơi mà trẻ muốn, đóng vai nhân vật mà trẻ thích,trong giờ học, trẻ được tự do phát biểu ý
kiến, suy nghĩ và hoạt động sang tạo theo ý tưởng của mình.

5


Câu 3: Phân tích nguyên tắc “ Giáo dục trẻ thông qua môi trường và tạo môi trường
hoạt động phong phú đa dạng , hấp dẫn cho trẻ” ? Liên hệ thực tiễn ởđịa phương.
Trả lời
Ý nghĩa
Hoạt động của trẻ sẽ có ý nghĩa khi trẻ được khám phá, trải nghiệm trong môi trường đa
dạng, phong phúhaaps dẫ và có ý nghĩa thiết thực đối với trẻ.
Với việc tạo ra môi trường giáo dục đa dạng ,phong phú ,lành mạnh an toàn và hấp dẫn với
trẻ nhỏ sẽ tạo cơ hội cho trẻ có nhiều cơ hội để khám phá , trải nghiệm trong hoạt động theo
nhu cầu , hứng thú đồng thời tạo điều kiện cho trẻ tích cực , chủ động và sang tạo trong các
hoạt động của mình góp phần phát triển nhân cách trẻ.
Nội dung
Đây là quan điểm giáo dục gắn trẻ với cuộc sống hiện thực xung quanh và xây dựng môi


trườn giáo dục phong phú , hấp dẫn , lành mạnh gần gũi với cuộc sống thực của trẻ.
Thực hiện và vận dụng
+ tạo môi trường phải có đủ điều kiện về không gian , thời gian và phương tiện để trẻ đươc
hoạt động thực sự
+ Nhà giáo dục cần biết biến yêu cầu giáo dục môi trường thành nhu cầu phát triển của trẻ
+Các bậc học mầm non cần quan tâm đến việc tạo ra môi trường gần gũi với thiên nhiên cho
trẻ nhằm hướng trẻ vào các mối quan hệ gần gũi với thiên nhiên ,hướng tới cái đẹp, sự kì diệu
và bao la của thiên nhiên
+môi trường tạo ra cần đảm bảo cho trẻ hoạt động tự nguyện với nhau , tạo ra nhiều cơ hội
cho trẻ khám phá thế giới xung quanh nhu cầu,hứng thú của mình.
**** Liên hệ thực tiễn
Tại trường mầm non nơi tôi đang công tác, nguyên tắc giáo dục trẻ thông qua môi
trườngvaf tạo môi trường hoạt động đa dạng phong phú hấp dẫn cho trẻ được thực hiện linh
hoạt, nhuần nhuyễn vào các giờ hoạt động học , chơi và khám phá của trẻ. Trong các tiết hoạt
động ngoài trời trẻ luôn đươck kjasm phá trong môi trường thiên nhiên hoặc môi trường được
trang trí theo đúng chủ đề. Trong các tiết học trẻ luôn được học với đầy đủ giáo cụ trực quan,
phương tiện để giúp cho trẻ lĩnh hội bài giảng một cách vui vẻ và đầy hứng thú..Không gian
lớp học và thời gian được bố trí cẩn thận tạo cho trẻ cơ hội phát huy tớu môi trường hoạt
động đầy hấp dẫn cho trẻ.
Câu 4: Trình bày nguyên tác “ Giáo dục theo hướng tích hợp “ trong giáo dục mầm non
?
Trả lời:
Ý nghĩa:
6


Giáo dục trẻ theo hướng tích hợp giúp cho quá trình giáo dục trẻ phù hợp với quá trình
nhận thức phát triển mang tính tổng thể cua trẻ.Theo quan điểm tích hợp thì những tri thức ,kĩ
năng sống và các trithuwcs tiền khoa học là phù hợp với trình độ phtas triển của trẻ mầm non
vì những tri thức đó mang tính tích hợp cao , có khả năng cung cấp cho trẻ nhiều kinh nghiệm


sống phong phú về nhiều mặt.Nhữn tác động giáo dục về các mặt đều liên quan đến nhau ,
nằm trong 1hệ thống và đươc thể hiện trong các hình thức giáo dục tích hợp tạo ra một sức
mạnh tổng hợp nhằm phát triển toàn diện nhân cách toàn vẹn của trẻ.
Với xu hướng giáo dục theo hướng tích hợp đã cho phép giáo viên phát huy được tính
chủ động và sang tạo của mình trong việc thiết kế bài giảngleen kế hoạch tổ chức các hoạt
động giáo dục một cách linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
b)Nội dung
-Giáo dục tích hợp nhìn nhận trẻ là trung tâm còn giáo viên có vai trò là người tổ chức
hướng dẫn , tạo cơ hội cho trẻ khám phá tìm hiểu thế giưois xung quanh, thiết lập quan hệ với
mọi người , học cách hòa nhập với môi trường tự nhiên và xã hội
Theo quan điểm tích hợp nội dung giáo dục trẻ hướng theo các chủ đề gần gũi với cuộc
sống của trẻ , được lồng ghép, đan cài trong các hoạt động giáo dục trên cơ sở lấy hoạt động
chủ đạo ( Vui chơi) làm hoạt động công cụ để tích hợp các hoạt động khác của trẻ ở trường
mầm non.
Giáo dục tích hợp huuwongs đến mục tiêu hình thành cho trẻ những phẩm chất , năng
lực chung chứ không nhấn mạnh đến việc hình thành kiến thức và kĩ năng đơn lẻ, góp phần
phát triển nhân cách trẻ cả về thể chất, nhận thức và tình cảm đạo đức xã hội trong một khối
thống nhất mang tính tổn thể.
c)Thực hiện và vận dụng
+ Giáo dục tích hợp coi trẻ là trung tâm, giáo viên cần khơi gợi tiềm năng của trẻ . quan tâm
đến tiềm năng phát triển của trẻ hơn là tạo ra cơ hội tương ứng với mục độ phát triển hiện tại
của trẻ. Giáo viên giảm dần sự trợ giúp khi trẻ có khả bang tuej điều khiển hoạt động của
mình.
+Người lớn có nhiệm vụ giúp trẻ hòa nhập với môi trường xung quanh một cách tích cực ,
hiệu quả
+các nội dung giáo dục phải theo các chủ đề gần gũi với cuộc sống của trẻ đuwocj được đan
cài, lồng ghép linh hoạt vào các hoạt động giáo dục phong phú đa dạng tọa điều kiện cho trẻ
vận dunhj những điều đã biết vào những hoàn cảnh mới, tình huống mới tạo cơ hội cho trẻ
phát huy đươc tính độc lập , chủ động,sang tạo trong hoạt động
7




+Giáo viên tổ chức cho trẻ hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau : trong lớp học, ngoài
trời , học cá nhân, theo tổ, theo nhóm…
+ tạo ra các góc hoạt động trẻ được tự chọn các hoạt động mà trẻ thích
+Lựa chọn, đan cài lồng ghép các phuuwong pháp biện pháp giáo dục kích thích trẻ tham gia
tích cực , chủ động sang tạo trong môi trường giáo dục an toàn, hấp dẫn đã đươc chuẩn bị sẵn
ở trường mầm non.
PHẦN 4: NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC MẦM NON
Câu 1: Trình bày nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mầm non. Liên hệ thực tiễn
Giáo dục sức khỏe cho trẻ chính là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có hướng
có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ nhằm phát triển sức khỏe cả về thể chất và tinh thần
giúp trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn, hồn nhiên, cơ thể phát triển hài hòa, cân đối góp phần
duy trì cuộc sống lành mạnh ,vui vẻ, an toàn, và hạnh phúc.
*Mục tiêu và ý nghĩa
-việc chăm sóc sức khơe cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng hang đầu của giáo dục mầ non, trẻ
chỉ có thể phát triển thể lực tốt nếu được chăm sóc giữ gìn sức khỏe, bảo vệ hệ thần kinh
khỏe mạnh cho trẻ.Khi đứa trẻ khỏe mạnh , hồn nhiên sẽ có ảnh hưởng rất tốt đến sự phát
triển chung của trẻ. Giáo dục thể chất cho trẻ là khâu then chốt trong công tác chăm sóc_giáo
dục trẻ vì chính những năm tháng đầu đời sức khỏe tốt sẽ là một điều kiện tốt cho cho cuộc
sống sau này của trẻ
_ Giáo dục thể chất gắn liền với giáo dục trí tuệ với việc bảo vệ hệ thần kinh tốt, các giác
quan được tinh tường sẽ giúp cho trẻ tích cực hoạt động với thế giới đồ vật, tích cự tiếp xúc
làm quen với môi trường xung quanh , lĩnh hội, nhận biết và cảm nhận cái đẹp sâu sắc và tinh
tường hơn.
** Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất
Phát triển sức khẻo thể chất và tinh thần , hình thành năng lực cá nhân duy trì cuộc sống lành
mạnh
-Phát triển các kĩ năng vận động tinh và hoàn thiện dần accs vận động cơ bản , hình thành
một số tố chất vận động cho trẻ .


Hình thành một số kĩ năng văn hóa –vệ sinh đơn giản
+ Giáo dục và tập cho trẻ các kĩ năng văn hóa vệ sinh đơn giản như tự đánh răng, biwwts mời
trước khi ăn,
+ Tạo dần cho trẻ thói quen ăn ngủ đúng giờ , dễ thích nghi khi thay đổi các hoạt động
+tạo cho trẻ cahs sống tự lập ở trường mầm non, không cần đến sự trợ giúp đỡ của người lớn.

8


Hình thành những kiến thức , kĩ năng và thái độ cần thiết cho việc đảm bảo sự an toàn cho
sức khỏe.
+ Hình thành ở trẻ tính tò mò ham hiểu biết về sức khỏe con người và tính tự giác biết làm
những việc cần thiết để phòng bệnh. Biếtmootj số món ăn có lợi cho sức khỏe và biết tránh
một số nguy cơ không an toàn và phòng tránh.
Phát triển ở trẻ khả năng tự kiểm soát và điều khiển cơ thể , phát triển tính độc lập , tự tin vào
năng lực thể chất của bản thân.
Tập cho trẻ biết phối hợp vận động nhịp nhàng , biết giữ thăng bang khi thực hiện vận động,
biết phối hợp tay và chân, tay và mắt trong vận động.
*** Phương tiện của giáo dục sức khỏe
Phương tiện giáo dục sức khỏe cho trẻ mầm non rất đa dạng , giúp cho ngưoid lớn thực hiện
được mục tiêu sức khỏe một cách có hiệu quả
Một số phương tiên giáo dục sức khỏe cho trẻ như:
+chế độ sinh hoạt hợp lý , phù hợp với từng độ tuổi
+ các bài tập rèn luyện sức khỏe, các trò chơi vận động giúp trẻ được vận động nhiều và và
phát triển các vận động cơ bản.
+Tiêm chủng , phòng bệnh và đề phòng tai nạn.
**** Thực hiện nội dung giáo dục sức khỏe cho trẻ
Các nội dung cần thực hiên
_tổ chức thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ là nội dung đặc biệt quan trọng.
-Tổ chức cho trẻ được luyện tập và phát triển hoạt động


-Tổ chức cho trẻ hoạt động trong thiên nhiên
b) Điều kiện cần thiết để tổ chức giáo dục sức khỏe
-Phải có cơ sở vâth chất phong phú phù hợp với những yêu cầu vệ sinh môi trường
giáo dục,
-Có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia dình, nhà trườn và phòng y tế trong công tác chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
- Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kết hợp với chế độ dinh dưỡng hợp lý theo độ tuổi
của trẻ.
c) Một số điểm cần lưu ý khi thực hiện nội dung gáio dục sức khơe cho trẻ
hệ thống tác động giáo dục phải đồng bộ nhằm abor vệ và giữ gìn cơ thể trẻ khỏe
mạnh, phát triển hài hòa góp phần phát triển nhân cách toàn diện
Giáo vien thúc đảy sự phát triển mềm dẻo về thể chất và tinh thần trẻ dựa trên kinhnghiemj
của trẻ thông qua mối quan hệ thân tình với các bạn và cô giáo
Tọa cho trẻ niềm vui liên quan đến cơ thể trẻ, đến sự hiểu biết và mong muốn của trẻ bằng
cách động viên khuyến khích trẻ ytham gia nhiều trò chơi , các hoạt động ngoài trời với các
hoạt động khác nhau phù hợp với hứng thú và nhu cầu cảu trẻ.
9


Sử dụng đa dạng àlinh hoạt mềm dẻo các phương tiện biện pháp và tổ chức môi trường cho
trẻ được vận động, phát huy tinh stichs cực , tụ lực của trẻ đồng thời đảm bảo được mối
quan hệ thân ái giữa trẻ với nhau.
***** Liên hệ thực tiễn
Tại trường màm non nơi tôi đang công tác đã đặt mục tiêu chăm sóc sức khơe của trẻ là
nhiệm vụ hàng đầu. Từ khâu vệ sinh thực phẩm đến nấu đều được kiểm nghiệm đầy đủ,
đảm bảo cho trẻ luôn được ăn chin uống sôi, thực hiện vệ sinh môi trường trong và ngoài
sân trường hàng ngày. Giáo viên luôn thực hiện các bài luyện tập cơ bản nhằm nang cao
sức khỏe cho học sinh. Phối hợp với bộ phận y tế trường thực hiện tốt công tác phòng
tránh bệnh. Cân đo sức khỏe định kì cho trẻ hàng tháng, có kiểm tra khám sức khỏe tổng
quát cho trẻ 1 năm 2 lần.Thực hiện hoạt động ngoài trời nhằm nâng cao sức khỏe và phát


huy tính tự lực khám phá môi trường xung quanh của trẻ, giúp trẻ gần gũi với thiên
nhiên.
Câu 2: Hãy trình bày giáo dục hoạt động nhận thức cho trẻ mầm non. Liên hệ thực
tiễn
Giáo dục và phát triển hoạt động nhận thức cho trẻ là một quá trình tác động sư phạm có
mục đích , có định hướng, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ nhằm hình thành cho trẻ
mọt số biểu tượng đơn giản về thế giới xung quanh và phương thức hoạt động trí tuệ sơ
đẳng góp phần phát triển những năng lực và nhu cầu hoạt động nhận thức ở trẻ em
Mục tiêu và ý nghĩa.
Mục tiêu cơ bản của việc phát triển hoạt động nhận thức là nâng cao trình độ phát triển chung
của trẻ , góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.Dưới sự tổ chức hướng dẫn của nhà
giáo dục , trẻ nắm được tri thức có hệ thống, có đươc một số biểu tượng sơ đẳng về thế giới
xung quanh trên cơ sở đó hình thành cho trẻ hứng thú nhận thức , bước đầu giúp trẻ nắm
được các phương thức đơn giản của hoạt động trí tuệ và tạo điều kiện phát triển hoạt động
nhận thức của trẻ.
-Giáo duch hoạt động nhận thức mà đặc biệt là giáo dục và phát triển các giác quan cho trẻ
mầm non là một điều quan trọng .Giáo dục trí tuệ cho trẻ còn có ý nghĩa quan trọng trong
việc chuẩn bị những điều kiện học tập có kết quả ở trường phổ thông sau này.
- Giáo dục hoạt động nhận thức có mối quan hệ mật thiết với giáo dục tình cảm, đạo đức xã
hội cho trẻ ,Thông qua hoạt động trí tuệ có thể giáo dục trẻ về tính trung thực, kiên trì, sang
tạo….Mặt khác phát triển năng lực nhận thức , cảm giác, tri giác là điều kiện cho hoạt động
10


thẩm mĩ của trẻ. Nhờ hệ thống tri thức , biểu tượng khái niệm về thế giới xung quanh ma trẻ
có thể nhận biết được giá trị thẩm mĩ từ đó có thị hiếu thẩm mĩ.
*** Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục nhận thức.
a) Hình thành và phát triển năng lực tìm hiểu , khám phá môi trường xung quanh của trẻ.
-Hình thành ở trẻ sự quan tâm , tính tò mò về các hiện tượng , sự vật khác nhau ở xung quanh
và thông qua đó giáo dục trẻ có ý thức gần gũi với môi trường.


-Thu hút trẻ vào hoạt động tìm hiểu khám phá môi trường xung quangqua đó liên hệ với cuộc
sống hàng ngày của mình.
- Tăng cường vốn tri thức cho trẻ, sắp xếp , giải thích và hệ thống hóa các tri thức đó.Giúp trẻ
hiểu rõ rang các khái niệm về sự vật xung quanh , chức năng và một số phẩm chất của chúng
như màu sắc , hình dạng, kích thước…Trẻ cũng cần được tiếp thu tri thức về một số hiện
tượng tự nhiên, nắm đươc mối liên hệ và quan hệ giữa các hiện tượng mang tính quy luật và
mang tính nguyên nhân gần gũi như dấu hiệu đặc trưng của các muàtrong năm…Cung cấp và
làm giàu một số biểu tượng sơ đẳng về một số hiện tượng và sự kiện tring đời sống xã hội của
người lớn,về đất nước, thủ đô, lãnh tụ, các ngày lễ hội…
b) Phát triển quá trình nhận thức của trẻ
-Phát triển các giác quan
-Trên cơ sở đó phát triển tưu duy và tưởng tượng cho trẻ. Đặc biệt quan tâm phát triển một số
thao tác của tư duy như so sánh, phân tích , tổng hợp.
c) Hình thành một số năng lực trí tuệ
-Hình thành khả năng định hướng trong môi trường xung quanh của trẻ
- Phát triển óc tò mò ham hiểu biết , sự nhanh trí..
- Hình thành khả năng nhận xét đánh giá khách quan các hiện tượng
- Hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề hợp lí của trẻ.
**** Phương tiện chủ yếu của giáo dục nhận thức
Phương tiện giáo dục hoạt động nhân thức như hoạt động với đồ vật, hoạt động học tập, hoạt

a)

động vui chơi, ngôn ngữ, làm quen vơi môi trường xung quanh, chế độ sinh hoạt hàng ngày.
***** Thực hiện nội dung giáo dục hoạt động nhận thức cho trẻ
Các nội dung cần thực hiện
-–Tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi
- Tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo
- tổ chức hoạt động hoc tập cho trẻ mẫu giáo
- Tổ chức giao tiếp hàn ngày


-Tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ.
b) Điều kiện cầm thiết đẻ tổ chức giáo dục nhận thức
-Phải có một môi trường học tập , vui chơi đa dạng phù hợp với yêu cầu giáo dục
-Sử dụng kết hợp các hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục nhằm kích thích
hoạt động nhận thức của trẻ
11


-Có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình nhà trường mầm non trong công tác giáo dục nhận thức
cho trẻ.
c) Mọt số điểm cần lưu ý khi thực hiện nội dung giáo dục nhận thức
- hệ thống giáo dục phải đồng bộ nhằm phát triển hoạt động nhận thức của trẻ , góp phần phát
triển nhân cách toàn diện
-Giáo viên nên thúc đấy sự phát triển trí tuệ dựa trên kinhnghieemj của trẻ, khai thác tiềm
năng vốn có , hướng sự phát triển của trẻ đến vùng phát triển gần nhất”
-Tọa cho trẻ hứng thú trong quá trình khám phá tìm hiểu môi trường xung quanh
-Sử dụng đa dạng và linh hoạt mềm dẻo cấc phương pháp biện pháp và tổ chức môi
trườngnhawmf phát huy tính tích cực nhận thức của trẻ.
****** Liên hệ thức tiễn
Tại trường mầm non nơi tôi công tác đã thực hiện việc giáo dục và phát triển nhận thức cho
trẻ một cách linh hoạt, đầy đủ và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế xã hội. tổ chức các
hoạt động tư duy gắn liền với tuổi, Luôn chuẩn bị giáo cụ trực quan , môi trường hoạt động
phù hợp theo chủ đề để khuyến khích, tạo hung sthus cho trẻ tham gia vào các hoạt động.
Giáo viên coi trẻ là trung tâm, ;là chủ thể của hoạt động luôn khuyến khích trẻ tích cực, tụ
lực khám phá môi trường xung quanh.
PHẦN 6: CHUẨN BỊ CHO TRẺ VÀO LỚP 1
Câu 1: Hayc làm rõ sự cần thiết chuẩn bị cho trẻ vào lớp một
Trả lời:
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một là một việc làm cần thiết bởi vì chuyển lên lớp một là một bước
ngoặt trong cuộc đời của trẻ , hoạt động chủ đạo của trẻ bị thay đổi. Ở trường mầm non trẻ


chơi là chủ yếu, đây là hoạt động thoải mái mang tính tự do, tự nguyện không bắt buộc nhưng
khi bước vào lớp một hoạt động học tập là hoạt động trí tuệ nghiêm túc mang tính bắt buộc
đòi hỏi trẻ phải cố gắng nhiều cả về trí tuệ lẫn tinh thần. Vì vậy, nếu đuwocj chuẩn bị tốt ,
chu đáo, toàn diện về cả sức khỏe , trí tuệ và tình cảm đạo đức xã hội cùng một tâm thế sẵn
sàn vào lớp một sẽ giúp trẻ tự tin, dễ dàng thích nghi , thích ứng với môi trường mới và hoạt
động học tập ở lớp 1.Điều đó tạo cho trẻ nhiều thuậnlowij trong việc lĩnh hội , tiếp thu
chương trình học ở lớp 1 và dễ dàng thiết lập mối quan hệ với bạn bè, thầy cô giáo và mọi
người xung quanh.
Ngược lại, nếu trẻ không được chuẩn bị chu đáo, toàn diện tâm thế vào lớp một thì việc học
ở lớp một của trẻ sẽ gặp khó khan , trẻ không dễ dàng thích ứng với môi trường mới, hoạt
động mới, trẻ dễ trở nên rụt rè, không tự tin trong giao tiếp và khó khan trong việc thiết lập
mối quan hệ với bạn bè và các thầy cô giáo.Tất cả điều đó gây cho trẻ tâm lí lo lắng , căng
12


thẳng và một số trẻ sợ phải đi học lớp 1.Điều này ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập
của trẻ ở lớp một và tạo ra những bất lợi, khó khăn cho trẻ ở các lớp học tiếp theo.
Nếu bắt trẻ học trước chương trình lớp một, áp đặt trẻ cũng sẽ gay ra những bất lợi cho trẻ.
Việc học trước là không phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lí ccuar trẻ mẫu giáo do trẻ
chưa đủ khả năng và điều kiện để học chữ và làm toán như trẻ 6 tuôit của lớp một. Mặt khác
khi học trước dễ sinh ra tâm lí chủ quan , không chịu cố gắng trong học tập của trẻ khi học ở
lớp 1
Như vậy việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một là một việc lầm cần thiết , mang một ý
nghĩa giáo dục và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chuẩn bị đầy dủ , chu đáo toàn diện cả về sức
khỏe, trí tuệ lẫn tình cảm đạo đức xã hội sẽ tạo cho trẻ một tâm thế tự tin, long mong mỏi
được đi học lớp một , giúp trẻ gặp thuận lợi với việc thích ứng với môi trường học tập mới và
tiếp thu lĩnh hội được kiến thức mới dễ dàng hơn.Các nhà giáo dục câbf pải coi trọng công
tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp một để từ đó đưa ra nội dung , phương pháp và các hình thức tổ
chức giáo dục khác nhau phù hợp với đặc điểm của trẻ.
Câu 2:Phân tích nội dung chuẩn bị về thể lực cho trẻ vào lớp 1?


Việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một là một việc làm cần thiết và quan trọng .Trong đó
việc chuẩn bị đầy đủ, chu đáo về thể lực là nội dung ưu tiên hàng đầu để trẻ bước vào lớp một
gặp nhiều thuận lợi cho việc học tập.Bao gồm các nội dung sau:
-Chuẩn bị sức khỏe đảm bảo ,chiều cao và cân nặng trong kênh A
Việc đảm bảo cho trẻ khỏe mạnh , nâng cao sức đề kháng giúp trẻ tránh được các bệnh tật.
-

điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của trẻ ở lớp 1
Cần rèn luyện và phát triển cho trẻ một số kĩ năng vận động cơ bản như là giữ thăng bằng ,
thực hiện thuần thục các động tác của bài tập thể dục , biết kiểm soát được vận đông… Đồng
thời cần phát triển ở trẻ mẫu giáo lớn một số tố chất vận động như sự khéo léo, sự dẻo dai,
bền bỉ, sự tinh tường nhằm nâng cao sức đề kháng của trẻ vơi ssuwj thay đổi của thời tiết khí

-

hậu và môi trường xung quanh.
Một nội dung quan trong trong việc chuẩn bị thể lực cho trẻ là giáo dục dinh dưỡng và sức
khỏe cho trẻ mẫu giáo lớn, dạy cho trẻ biết một số món ăn , thực phẩm thông thường và lợi
ích của chúng đối với sức khỏe. Có một số kĩ năng tự phục vụ trong sinh hoạt như tự rửa tay,
rửa mặt, đánh răng, tự thay quần áo…Tập cho trẻ một số hành vi thói quen văn hóa vevj sinh
trong sinh hoạt và giữ gìn sức khỏe ( biết mời trướckhi ăn, không nói chuyện đùa nghịch
trong khi ăn…) Dạy trẻ nhận biêt một số nguy cơ không an toàn để phòn tránh như : Không
13


nghịch những vật sắc nhọn, không đi theo người lạ, không nhận quà của người lạ, khôngleo
cây côi….
Câu 3: Trình bày nội dung chuẩn bị về tâm lý cho trẻ vào lớp 1.
Việc vào lớp một là một bước ngoặt quan trọng đối với trẻ, môi trường thay đổi, hoạt động
chủ đạo thay đổi ảnh hưởng rât lớn đến trẻ, do đó việc chuẩn bị về tâm lý cho trẻ bao gồm


chuẩn bị cả về trí tuệ và chuẩn bị về tình cảm đạo đức và thẩm mĩ khi vào lớp một là một việc
b)

làm vô cùng cần thiết và quan trọng.
Chuẩn bị về trí tuệ
_ Cung cấp cho trẻ một số biểu tueoengj về bản thân ( nói đúng họ tên,giới tính ) đồng thời
cung cấp cho trẻ một số biểu tượng về môi trường tự nhiên , môi trường xã hội xung quanh
trẻ ( trẻ biết địa chỉ gd, biết tên trường mầm non mình đang học, nói được tên, công việc của
các thành viên trong gia đình, tên cô giáo, và tên các ban, nhận biết được một số nghề nghiệp
phổ biến , biết ngày lễ , tết …)
-Hình thành cho trẻ một số biểu tượng toán sơ đẳng ( màu sắc, hình dạng, kích thước, biểu
tượng về thời gian, khả năng định hướng trong không gian…nhận biết biểu tuwongj về số
trong phạm vi 10).Cung cấp cho trẻ một số biểu tượng về các sự vật , hiện tượng và nhận biết
được mối quan hệ của chúng với nhau, giúp trẻ giải quyết một số vấn đề đơn giản trong các
hoạt động cũng như sinh hoạt hàng ngày ởtrường mầm non.
-Phát triển ngôn ngữ nói mạch lạc và cho trẻ làm quen với chữ cái là nhiệm vụ quan trong
trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.Việc hiểu nghĩa của từ khái quát , việc nghe và hiểu
cũng như diễn đạt cho cô giáo, các bạn hiểu được ý tưởng, dự định của mình giúp trẻ tự tin
trong giao tiếp và hiểu sâu hơn những yêu cầu cần phải thực hiện giúp trẻ lĩnh hội được kiến
thức kĩ năng cần thiết cho việc học lớp 1
-Giáo viên cần phải quan tâm, chú trọng đến việc rèn luyện và phát triển trình độ tinh nhạy,
khéo léo của giác quan.Trên cơ sở đó phát triển quá trình tư duy tưởng tượng cho trẻ , đặc
biệt cần quan tâm phát triển một số thao tác cảu tư duy logic, so sánh, phân tich…từ đó phát
triển tư duy trực quan sơ đồ và tư duy logic cho trẻ mẫu giáo lớn nhằm giúp trẻ tiếp thu
chương trình học ở lớp 1 được dễ dàng
-Bên cạnh những nội dung trên , cần chú ý đến việc hình thành và phát triển ở trẻ MGL năng
lực sang tạo, tích cực nhận thức , óc quan sát , tính ham hiểu biết …tạo cơ hội thuận lợi cho
trẻ học tập, góp phần nâng cao kết quả ở lớp 1
b) Chuẩn bị về tình cảm , đọa đức và thẩm mỹ
14




--Giáo dục trẻ có ý thức về bản thân và có thái đô j thân thiện , tình cảm thân ái với mọi
người xung quanh.
-Hình thành cho trẻ một số chuẩn mực về hành vi đạo đức –xã hội như cư xử đúng mực trong
sinh hoạt ở lớp, ở trường mầm non, ở gia đình , nơi công cộng và cộng đồnggaanf gũi quan
tâm , bảo vệ môi trường.
-GD trẻ có những tình cảm đạo đức, xã hội như long nhân ái, sự cảm thông chia sẻ với mọi
người
-Giáo dục trẻ có tinh thần trách nhiệm , bước đầu có ý thức công dân, có ý thức , nghĩa vụ với
bản thân và mọi người xung quanh, có tính kỉ luật
-Bước đầu hình thành cho trẻ kĩ năng cùng chung sống, kĩ năng chia sẻ. cảm thông , thỏa
thuận với bạn bè và mọi người xung quanh.
-Hình thành một sốkix năng văn hóa vệ sinh sơ đẳng như biết chào hỏi lễ phép, biết tự phục
vụ biết giữ gìn môi trường sạch đẹp
-Giáo dục trẻ biết cảm nhận và thể hiện cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên , cuộc sống gần gũi
và nghệ thuật
Tập cho trẻ có một số kĩ năng trong hoạt động âm nhạc ( nghe hát , vận động theo nhạc) và
tạo hình ( vẽ, nănh, xé , dán …)
Câu 4. Trình bày nội dung chuẩn bị tâm thế vào lớp 1
-Để trẻ bước vào lớp một tự tin, vui vẻ và đạt kết quả tốt bên cạnh viêch chuẩn bị về thể lực,
tâm lí thì viêchh chuẩn bị tâm thế cho trẻ cũng rất quan trọng
-Trước hết cần phải giáo dục cho trẻ long khát khao ,mong mỏi được đi học lớp một.giúp trẻ
có thái đôk phấn khởi , hào hứng với việc đi học .Điều này sẽ giúp cho trẻ dễ thích ứng với
môi trường học tập mới ở trường tiểu học.
-Để chuẩn bị cho trẻ vào lớp một được tốt , giáo viên cũng như bố mẹ trẻ cần tập cho trẻ có kĩ
năng cầm bút và ngồi học đúng tư thế điều đó sẽ tạo cho trẻ nền tảng ban đầu cho việc tập
viết ở lớp một.
-Bên cạnh đó cũng cần chú trọng đến việc tập cho trẻ mẫu giáo lớn một số kĩ năng làm việc
với sách vở, đồ dung học tập ( biết giở sách, giở vở đúng cách, biết yêu quý và giữ gìn đồ


dung.
Câu 5: hãy trình bày một số hình thức chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1
1.Thông qua các hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non

15


-các nội dung chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 sẽ được tiến hành thông qua xá hoạt động giáo dục
trẻ ở trường mầm non ngay từ khi trẻ mới vào trường , đặc biệt ở lớp MGL được quan tâm
hơn cả
a) Thông qua việc tổ chức hoạt động vui chơi
-Khi tổ chức trò chơi cho trẻ cần tạo điều kiện cho trẻ chơi \hết mình, chơi theo nhu cầu, ý
thích của trẻ , bên cạnh đó cần khuyến khích trẻ phát triển các ý tưởng chơi, dự định chơi
.Giáo viên cần ủng hộ và phát triển các ý tưởng của trẻ trong khi chơi, nâng đân đọ khó của
các nhiệm vụ chơi lên mức cao hơn
-Giáo viên sử dụng hoạt động vui chơi như một phương tiện giáo dục phát triển toàn diện cho
trẻ mẫu giáo lớn cả về thẻ chất, tinh thần trí tuệ, tình cảm đạo đức xã hội, thẩm mũ chuẩn bị
cho trẻ vào lớp 1
-Trong khi tổ chức cho trẻ chơi người lớn cần ủng hộ trẻ bằng nhiều cách khác nhau nhưu
cung cấp thời gian cho trẻ chơi, cũng như tạo môi trường chơi , đồ chơi, vật liệu chơi phong
phú đa dạng.bên cạnh đó cung cấp làm giàu thêm vốn kinh nghiệm thực tế qua các lần đi dã
ngoại, xem phim…quấnts về động vật , thực vật
-Giáo viên có thể giúp trẻ bằng cách nhập vào cuộc chơi của trẻ , nhập cuộc chơi như là
người quan sát , có thể mở rộng nội dung chơi của trẻ bằng những câu hỏi, lời đề nghị…
b) Thông qua các hoạt động học theo chủ đề cho trẻ
-Đây cũng là một hình thức quantrongj và hết sức cần thiết để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.Việc
tổ chức xoay quanh chủ đề, kết hợp đan cài tích hợp các nội dunghcj cũngnhuw các hoạt
động kahcs nhau theo chủ đề giúp giáo viên có thể linh hoạt xác định mục tiêu, nội dung học
tập phù hợp với giới hạn cao nhất mà trẻ có thể làm được sẽ góp phần khai thác được tiềm
năng của chúng.


-Tăng cường cho trẻ học qua chơi, cho trẻ được thực hành, trải nghiệm trong khi học .Tích
cực sử dụng các trò chơi, tình huống chơi trong dạy học tích hợp chủ đề
-Cho trẻ được học trong môi trường chơi đa dạng, phong phú, hấp dẫn
-Khuyến khích quan tâm đến sự phát triển nhận thức của trẻ nhưng không nên chú trọng đến
việc dạy trẻ các kĩ năng đơnler mà cần giúp trẻ iết suy nghĩ , chia sẻ ý tưởngg tang cường hợp
tác giữa giáo viên và trẻ
-Tổ chức môi trường hoạt động phong phú , khai thác tình huống thực tiễn nhằm kích thích
óc sang tạo và tính tự lập , tính tích cực nhận thức của trẻ
c) Thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ ở trường mầm non
-Việc tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngayuf một cách hợp lý giúp trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn
vào tạp cho trẻ thói quen đẽ dàng chuyển từ hoạt động ngày sang hoạt động khác .Nhờ chế độ
16


sinh hoạt hợp lý mà trẻ có ý thức kỉ luật và tinh thần trách nhiệm với các công việc đươc
-

giao,Điều này giúp trẻ dễ thích nghi hơn với môi trường hoạt động mới ở lớp 1.
Việc tổ chức sinh hoạt trong ngày theo hướng tích hợp chủ đề tạo cho trẻ có điều kiện, có cơ
hội thuận lợi trong việc khám phá môi trường gần gũi xung quanh mình giúp trẻ chiếm lĩnh

-

-

kiên sthuwcs kĩ năng cần thuieets cho việc học ở trường phổ thông
-Khi sắp xêp chế độ sinh hoạt cho trẻ cẩn đảm bảo:
+ Thỏa mãn nhu cầu của trẻ,phù hợp với từng độ tuổi
+Đảm bảo an toàn về cơ thể cũng như các yêu cầu về vệ sinh
+Không áp đặt ý kiến chủ quan của người lớn,tạo đieuf kiện tối đa cho trẻ phát triển tối đa


khả năng vốn có
+có sự linh hoạt , mềm dẻo trong một chừng mực nhất định khi thựu hiện
+Đảm bảo trẻ được hoạt động tích cực,nghỉ ngơi thoải mái
+Đảm bảo trình tự được lặp đi lặp lại tạo thành thói quen cho trẻ
+Phù hợp với khí hậu từng mùa
2. Mở thêm các lớp bồi dưỡng chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1
3 kết hợp chặt chẽ giữa trường mầm non với gia đình trong công tác chuẩn bị vào lớp 1
-Trường mầm non và gia đình phải thống nhất với nhau trong quan điểm chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một ,phối hợp cùng nhau chuẩn bị một cách toàn diện cho trẻ cả về sức khỏe , trí tuệ,
tình cảm đạo đức. thẩm mĩ để trẻ có đủ điều kiện để vào lớp 1. Về phía trường mầm non
tuyên truyền , tư vấn cho các bậc phụ huynh những kiến thức cần thiết để họ chuẩn bị cho
con vào lớp 1 theo khoa học, giúp họ không nôn nóng, vội vàng bắt con học trước chương
trình của lớp 1
4, Kết hợp chặt chẽ giữa trường mầm non với trường tiểu học trong công tác chuẩn bị

cho trẻ vào lớp 1
-Giáo viên cần phải kết hơpj chặt chẽ với giáo viên dạy lớp 1 trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp
1. Cần nghiên cứu kĩ chương trình giảng dạy của lớp MGL và lớp 1 để có thể kế thừa , phát
huy lẫn nhau , tránh hiện tượng dạy học chồng chéo,hoặc dày nhầm
- thông qua 1 số hình thức như cho trẻ 5 tuổi đi tham quan trường tiểu học, làm quen vơi học
sinh lướp 1, giao lưu cùng nhau đẻ hiểu nhau hơn vàddawcj biệt giúp trẻ mẫu giáo lớn thích
được vào lớp 1, khát khao , mong mỏi vòa lớp 1, đươc nhanh giống như anh chị lớp 1
Câu 1 : Khái niệm mục tiêu của giáo dục học mầm non
-

Là một bộ phận của mục đích của giáo dục học MN, là mô hình nhân cách trẻ mầm
non phù hợp với y/c và đòi hỏi của xã hội giai đoạn nhất định. Nó cũng là những dự
kiến về kết quả đạt được của quá trình GDMN trong 1 t/g nhất định( trẻ lọt long đến 6
tuổi)
17




-

Mục tiêu của GDMN là điều kiện thuận lợi để thực hiên mục tiêu ở các giai đoạn tiếp
sau. Nó vừa mang tính định hướng, vừa mang tính định tính, vừa mang tính định lượng

-

để giúp cho sự phát triển của trẻ một cách khách quan và thuận lợi.
Đổi mới mục tiêu GDMN trongg giai đoạn đổi mới hiện nay phải hướng tới xã hội đứa
trẻ, hình thành 1 số kĩ năng cần thiết để trẻ tham gia thuận lợi vào cs của bản thân,
cộng đồng xã hội. những quan điểm chung về đổi mới mục tiêu GDMN thì phải xuất
phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo của nền GDVN trong giai đoạn hiện nay và là mô
hình dự kiến vươn tới trong tương lai.

Câu 2: cơ sở xác định môi trường GDMN
Một trong những cơ sở xđ mục tiêu chăm sóc, GD trẻ em ở lứa tuổi MN trong thời kì
đổi mới đó chính là quan điểm chung về đổi mới mục tiêu GD và đào tạo của nên GDVN
trong giai đoạn hiện nay, nhằm nâng cao và mô hình nhân cách con người dự kiến trong
tương lai.
Muốn đưa ra được mô hình dự kiến nhân cách của trẻ em ở lứa tuổi MN, các nhà giáo
dục phải dựa vào đặc điểm phát triển tâm – sinh lý của trẻ em lứa tuổi MN VN ngày nay. Các
công trình nghiên cứu về trẻ cho thấy tốc độ tang trưởng và phát triển của trẻ ở lứa tuổi MN
diễn ra nhanh hơn các g/đ sau này của cuộc đời con người.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, GDMN nc ta nhất thiết phải vận dụng linh hoạt,
mềm dẻo những tư tưởng GD trẻ tiên tiến của TG nói chung và trong khu vực nói riêng cho
phù hợp với đặc điểm VH xã hội và sự phát triển của trẻ em VN.
Không chỉ dựa vào thành tựu khoa học GD trẻ các nc trên TG mà còn phải quan tâm
đến thực tiễn GDMN nước ta trong gđ hiện nay và tính khả thi của nó trong thời kì đổi mới.


GDHMN hiện nay đã bắt đầu thực hiện hóa thong qua xây dựng chương trình thực nghiệm
đổi mới hình thức giáo dục theo nguyên tắc “ Lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực
cảu trẻ”
Thực hiện đổi mới mục tiêu GDMN là chuẩn bị tiền đề quan trọng và những sự phát
triển cần thiết để cho trẻ bước vào trường phổ thong, tạo đà quan trọng đảm bảo cho những
mục tiêu GD tiếp sau. Như vậy mục tiêu GDMN không phải xuất phát từ ý thức chủ quan
mang tính áp đặt của các nhà quản lý GD mà là sự phản ánh đòi hỏi của nền sx hiện đại cảu
chế độ kinh tế - xã hội của nc ta những năm đầu thế kỉ 21 và đặc điểm phát triển tâm sinh lý
của trẻ.
18


Câu 3: Mục tiêu GDMN nước ta lầ gi?
Tại điều 22 Luật GD 2005 của nc ta đã xác định: “Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em
phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một”
Bước sang thời kì đổi mới, GDMN nói riêng và GD nói chung cần có sự đổi mới trong mục
tiêu GD của mình. Mục tiêu GDMN phải hướng tới việc đáp ứng và phù hợp với đặc điểm
phát triển và nhu cầu cơ bản của trẻ trong từng giai đoạn; sự chăm sóc GD trẻ phải nằm trong
sự thống nhất, bổ sung và hoàn thiện cho nhau góp phần đặt cơ sở nền tảng ban đầu cho việc
hình thành các phẩm chất mới của nhân cách con người VN trong công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước như chủ động, thích ứng, sang tạo và hợp tác.
Khi xây dựng các mục tiêu cụ thể cho từng đọ tuổi, từng vùng miền cần bổ sung them những
nội dung phù hợp với đối tg trẻ cụ thể.
Câu 4: Trình bày ý nghĩa, ND, điều kiện thực hiện cuả nguyên tắc đảm bảo tính hệ
thống, tính liên tục thường xuyên; tính vừa sức.. nhằm giáo dục và phát triển toàn vẹn
nhân cách trẻ
Ý nghĩa: Mục tiêu GDMn hướng tới là GD và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ cả về
thể lực – sức khỏe lẫn tinh thần và tình cảm đọa đức – xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đề
ra các nhà GD cần phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, tính liên tục thường


xuyên, tính vừa sức.
GD trẻ vừa sức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp tạo cơ hội cho trẻ linh hội kiến
thức và hình thành kí năng sâu sắc hơn giúp trẻ vận dụng kiến thức vào hoàn cành và môi
trường mới trong cuộc sống hàng ngày.
Việc đảm bảo tính thường xuyên, tính có hệ thống trong quá trình GD giúp trẻ đc tham
giâ khám phá và trải nghiệm trong thế giới xung quanh 1 cách có hệ thống, mặt khác đáp ứng
và làm thỏa mãn nhu cầu phát triển của trẻ cả về sức khỏe, trí tuệ, tình cảm đạo đức xã hội và
những tiềm năng vốn có hướng tới năng lực cần thiết tạo điều kiện cho trẻ thích nghi dần với
cs bên ngoài.
Nội dung: phải đạt được mục tiêu giáo dục đã đặt ra và giáo dục phải hướng sự phát triển của
trẻ đến “vùng phát triển gần nhất”, phát triển đc tiềm năng vốn có của trẻ, nâng sự phát triển
của trẻ lên tầm cao hơn, GD phải đi trc sự phát triển của trẻ.
Nguyên tắc GD vừa sức là GD phải phù hợp với đặc điểm phát triển tâm – sinh lý của
trẻ, phù hợp với đặc điểm cá nhân trẻ.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống là GD từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp
19


Đảm bảo tính thường xuyên là cho trẻ được hoạt động, được thường xuyên khám phá
và trải nghiệm trong TG xung quanh trẻ.
Thực hiện và vận dụng:
- Nhà giáo phải coi trọng mục tiêu GD đã đề ra và cố gắng đạt được mục tiêu đó.
- Chú ý khai thác khả năng còn tiềm ẩn của trẻ, tạo cơ hội và điều kiện cho trẻ được bộc
-

lộ tiềm năng vốn có thong qua hoạt động của trẻ ở trường MN.
Không làm thay trẻ
Dẫn dắt trẻ nhận biết, phân tích, phán đoán, suy luận. Dành thời gian cho trẻ suy nghĩ,

-



không cắt ngang dòng suy nghĩ của trẻ
Tạo môi trường và đk thuận lợi cho trẻ được thường xuyên tham gia khám, trải nghiệm

TG xung quanh.
Câu 5: Trình bày ý nghĩa, ND, điều kiện thực hiện cuả nguyên tắc cá biệt hóa trong
GDMN
Ý nghĩa : quan điểm cá biệt hóa trong GD trẻ yêu cầu vai trò và trách nhiệm của nhà GD cao
hơn, cho phép họ sang tạo, linh hoạt hơn trong công tác chăm sóc GD trẻ nhằm phát triển
những năng lực, phẩm chất chung của trẻ, giúp trẻ thích nghi với cs trong cộng đồng xã hội.
Mỗi đứa trẻ đều trải qua trình tự phát triển giống nhau nhưng tốc độ, nhịp độ, khuynh hướng
riêng, trải nghiệm cs của mỗi trẻ là không giống nhau vì vậy tác động sư phạm có hiệu quả là
những tác động phải phù hợp với điều kiện bên trong của mỗi đứa trẻ. Nhà GD phải tìm ra
những net riêng của mỗi đứa trẻ để có biện pháp GD phù hợp.
Nội dung: điểm căn bản của quan điểm này là coi trọng đặc điểm cá nhân của từng trẻ. GD
trẻ phải xuất phát từ việc đảm bảo lợi ích của trẻ, tôn trọng nhân cách, nhu cầu, hứng thú và
kinh nghiệm sống của mỗi trẻ.
Thực hiện và vận dụng:
- Tránh rập khuân máy móc và GD đồng loạt trong chăm sóc – GD trẻ
- Kích thích khả năng đặc biệt của mỗi trẻ và phát huy nội lực bên trong của chúng, nâng
-

cao vai trò chủ động, tích cực của từng cá nhân trong các hoạt động của trẻ.
Dựa vào đặc điểm cá nhân từng trẻ để có kế hoạch cũng như thiêt kế hoạt động GD trẻ

-

phù hợp với từng đứa trẻ.
Khi tổ chức hoạt động cần dựa vào vốn kinh nghiệm của trẻ.
Phải cá biệt hóa GD với từng đứa trẻ và trẻ càng bé thì việc chăm sóc và GD càng được



-

cá biệt hóa nhiều hơn.
Tổ chức hoạt động phong phú cho trẻ với phương châm lấy trẻ làm trung tâm, phát huy
tính tích cực của trẻ trong hoạt động.

Câu 6 : Trình bày ý nghĩa, ND, điều kiện thực hiện cuả nguyên tắc xã hội hóa GDMN.
20


Ý nghĩa: sự kết hợp chặt chẽ giữa GD gia đình, nhà trường và cộng đồng là một phấn của
chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Xã hội hóa GDMN là một điều cần thiết. Xã hội hóa
GDMN là một xu hướng tất yếu và cần thiết trong thực tiễn GD trẻ ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Nội dung: Quan điểm xã hội hóa đối với GDMN thể hiện mối quan hệ hợp tác và sự phối
hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các lực lượng xã hội nhằm phát huy tiềm năng của
các lực lượng này trong công tác GDMN.
Thực hiện và vận dụng:
- Đẩy mạng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và các lực lượng xã hội trong GDMN
- Sự đa dạng của gia đình và cộng đồng phải là một phần của chương trình GD trẻ.
- Chương trình GD trẻ xây dựng trên cơ sở vốn kiến thức và kinh nghiệm của trẻ, của
-

gia đình, xã hội, đảm bảo sự linh hoạt thích ứng với những nhu cầu và đk khác nhau
Chương trình GD phải đa dạng hóa để phù hợp với từng loại hình GDMN như công



lập, dân lập, tư thục…


Nội dung GDMN phải đa dạng, phù hợp với nhu cầu xã hội của cộng đồng
Liên hệ thực tiễn :

Huy động xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục:.
Khai thác và huy động mọi lực lượng xã hội, từ tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể các
doanh nghiệp, đơn vị đóng trân trên địa bàn, các tổ chức xã hội, Hội từ thiện, Hội cha mẹ học
sinh đến các cá nhân tham gia việc xây dựng môi trường giáo dục.
Tuyên truyền, khơi dậy truyền thống hiếu học của dân tộc, của làng bản và của mỗi dòng họ
trong học tập của con cái. Làm cho mỗi người thấy được trách nhiệm của mình trước con
cái.Vận động mọi gia đình tạo điều kiện cho con đến trường, chăm lo chăm sóc giáo dục trẻ ở
nhà và đóng góp trong điều kiện có thể có để xây dựng môi trường giáo dục trong nhà trường.
Huy động xã hội tham gia vào quá trình CSGD trẻ:
Vận động các lực lượng xã hội tham gia giúp đỡ các hoạt động trong nhà trường; Dọn
vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh, xây dựng bồn hoa vườn trường; tham gia các hoạt động
ngày lễ ngày hội trong trường mầm non, các Hội thi tuyên truyền của ngành học; sưu tầm đồ
dùng, đồ chơi phục vụ cho CSGD trẻ, mời phụ huynh tham gia dự giờ các hoạt động chăm
sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Thực hiện nhiệm vụ phổ cập trẻ 5 tuổi, nâng cao chất
lượng trẻ 5 tuổi chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào lớp một phổ thông. Qua đó để phụ huynh
hiểu rõ hơn về ngành học mầm non.

21


Huy động các lực lượng xã hội tham gia vào qua trình đa dạng hoá các loại hình trường
lớp.
Tham mưu với Chính quyền địa phương, tuyên truyền cho các tổ chức, các doanh
nghiệp, cá nhân thành lập các nhóm lớp mầm non dân lập, tư thục trên địa bàn phường. Bởi
các cơ sở giáo dục mầm non, dân lập và tư thục sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển
giáo dục mầm non trên địa bàn, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn..
Huy động xã hội đầu tư các nguồn lực cho giáo dục:


- Nhà trường đã huy động các lực lượng xã hội , hội phụ huynh học sinh đóng góp nhân lực,
vật lực để xây dựng cơ sở trường lớp, tăng cường trang thiết bị cho nhà trường, giúp đỡ học
sinh gia đình nghèo, học sinh con em gia đình thuộc diện chính sách gặp khó khăn, học sinh
con em dân tộc thiểu số, khuyến khích khen thưởng học sinh giỏi. học sinh nghèo vượt khó.
- Vận động các lực lượng xã hội, các đoàn thể, phụ huynh đưa con em trong độ tuổi ra lớp,
chống bỏ học, duy trì sĩ số.. Huy động phần đất dành cho việc xây dựng trường, lớp.

Câu 7 : nêu ý nghĩa, Nd và cách thực hiện phương pháp trực quan
Ý nghĩa : phương pháp trực quan cho phép trẻ được sử dụng giác quan của mình trong khám
phá thế giới xung quanh. Trẻ không chỉ làm quen Tg xung quanh bằng mắt, bằng tai mà còn
bằng sự cảm nhận của đôi tay. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoạt động
nhận cảm của trẻ, cơ sở hình thành và phát triển tư duy, tưởng tượng cho trẻ.
Nội dung và cách tiến hành:là phương pháp cho trẻ khám phá Tg xung quanh thong qua các
giác quan : quan sát, nghe, cầm, nắm, sờ, nếm, ngửi… những đối tượng và hiện tượng thực
hoặc những vật mô tả chúng.
Phương pháp trực quan bao gồm phương pháp quan sát kết hợp nghe, cầm, nắm, sờ, nếm,
ngửi… và phương pháp trình bày trực quan
-

Để trẻ quan sát kết hợp với các giác quan khác có hiệu quả giáo viên cần chủ động tổ
chức một cách có kế hoạch, đặt cho trẻ nhiệm vụ làm theo kế hoạch đã vạch ra, hình
thành cho trẻ kĩ năng phân tách các dấu hiệu cơ bản của sự vật, hiện tượng.

-

Nội dung quan sát phải phức tạp dần, chọn đối tg quan sát khó hơn, xem xét các khía
cạnh mới của đối tg, mối liên hệ giữa các thuộc tính của đối tg, hiện tượng, sự vật.
22



Phương pháp trình bày trực quan là phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong
khi tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ. Nó đc thể hiện bằng cách trưng bày các đồ vật thật,
tranh ảnh, vật mẫu..
-

Khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần lựa chọn đối tượng phù hợp với trẻ, hướng
trẻ vào những thuộc tính, dấu hiệu cơ bản của đối tg theo trình tự logic, liên kết tri thức
riêng lẻ của trẻ để tạo thành biêu tg hoàn chỉnh về nó.

Điều kiện thực hiện : - phải có đồ dung, đồ vật trực quan
- Kết hợp với lời nói

Câu 8 : nêu ý nghĩa, Nd và cách thực hiện phương pháp dung lời nói
Ý nghĩa: ngôn ngữ vừa là phương tiện để giao tiếp đồng thời vừa là cơ sở cho mọi chức năng
trí tuệ cao cấp và nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhận thức của trẻ.
Trong quá trình hợp tác cùng hoạt động với nhau, lời nói của giáo viên vừa giúp cho trẻ khả
năng nghe và hiểu người khác và đồng thời cùng dạy trẻ nói cho người khác hiểu ý mình.
Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào văn hóa giao tiếp của giáo viên, mức
độ biểu cảm ngôn ngữ và mức độ hiểu biết cảu trẻ
Nội dung và cách tiến hành:
Phương pháp dung lời nói là phương pháp sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nói như trao
đổi, trò chuyện, giải thích, đặt câu hỏi… nhằm giúp trẻ thu nhận thong tin, kích thích trẻ suy
nghĩ, chia sẻ ý tưởng, bộc lộ cảm xúc, gợi nhớ những hình ảnh và sự kiện bằng lời nói.
-

Khi đàm thoại hay thảo luận vấn đề nào giáo viên cần đặt câu hỏi, lời đề nghị ngắn
gọn, dễ hiểu, gần gũi với kinh nghiệm sống của trẻ và hướng trẻ vào nhiệm vụ cần giải
quyết, kích thích trẻ suy nghĩ và trả lời.

-



Giáo viên cần quan tâm khuyến khích trẻ đưa ra câu hỏi cho các bạn và cô giáo.

-

Cho trẻ tập kể chuyện, khuyến khích trẻ kể sang tạo.

Điều kiện thực hiện: lời nói của cô giáo cần ngắn gọn, dễ hiểu có hình ảnh “ nhà sư phạm
phải biết tính toán, điều chỉnh lời nói của mình”.

23


Câu 9 : nêu ý nghĩa, Nd và cách thực hiện phương pháp thực hành, trải nghiệm
Ý nghĩa : trong quá trình tìm hiểu và khám phá môi trường xung quanh trẻ không chỉ cần
nghe giáo viên nói, quan sát những gì cô yêu cầu mà còn phải trực tiếp tham gia trải nghiệm
để có thể nắm được những tính chất đặc trưng, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Phương pháp này tạo điều kiện cho trẻ tham gia trực tiếp vào hoạt động từ đó giúp trẻ nhận
thức sâu sắc hơn và phát huy được tính tư duy của trẻ.
Nội dung và cách tiến hành:
Phương pháp trải nghiệm, thực hành là phương pháp cho trẻ được thực hành làm việc, được
trải nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Trong nhóm phương pháp thực hành, trải nghiệm có 4 phương pháp:
-

Phương pháp thực hành thao tác với đồ vật, đồ chơi: trẻ sử dụng phối hợp các giác
quan và làm theo sự chỉ dẫn của người lớn và thao tác với đồ vật, đồ chơi. Khi sử dụng
phương pháp này, giáo viên phải thường xuyên cho trẻ khám phá đồ vật, đồ chơi thong
qua các giác quan tron hoạt động với đồ vật dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng.


-

Phương pháp trò chơi: sử dụng trò chơi hay các yếu tố chơi, hành động chơi đa dạng
hấp dẫn kích thích trẻ tự nguyện, hứng thú, tích cực giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.

-

Phương pháp luyện tập: cho trẻ làm nhiều lần nhằm hình thành và củng cố một số kĩ
năng đã thu nhận được. Y/c cho trẻ luyện tập nhiều lần, từ dễ đến khó.

-

Phương pháp làm thí nghiệm đơn giản: là cho trẻ khám phá khoa học thong qua làm thí
nghiệm đơn giản giúp trẻ nhận thức được bản chất bên trong của sự vật mà trẻ không
nhận thức qua các giác quan. GV cần cùng trẻ chuẩn bị cho công việc thí nghiệm, cùng
thảo luận và đưa ra kế hoạch cho tiến trình làm thí nghiệm, cùng khám phá với trẻ và
đưa ra kết luận.

Điều kiện thực hiện: có đủ thời gian môi trường hoạt động đa dạng phong phú cho trẻ được
thực hành, trải nghiệm trong các hoạt động của trẻ ở trường.
Câu 10 : nêu ý nghĩa, Nd và cách thực hiện phương pháp tạo tình huống giáo dục
Ý nghĩa: sự có mặt của những tình huống trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ
góp phần thúc đẩy tính tích cực, tự lập, óc sang tạo của trẻ trong hoạt động vui chơi, học tập
và giao tiếp của chúng. Chính những tình huống đó bắt trẻ phải suy nghĩ, phải sử dụng một số
24


thao tác tư duy như so sánh, hệ thống, huy động vốn hiểu biết của mình để giải đáp. Tạo điều
kiện cho trẻ tìm kiếm và vận dụng những cái đã biêt vào hoàn cảnh và điều kiện mới, nâng
cao tính tích cực của trẻ.


Nội dung và cách tiến hành:
Bản chất của phương pháp này là tổ chức hoạt động tìm kiếm cho trẻ mẫu giáo, cuốn
hút trẻ vào hoạt động khám phá, kích thích và duy trì hứng thú đến nhiệm vụ nhận thức, tạo
điều kiện cho trẻ lĩnh hội những tri thức mới và hình thành năng lực sang tạo, tính tích cực,
tính độc lập trong hoạt động của trẻ.
Tính đa dạng của phương pháp này là tạo ra tình huống với những điều kiện cụ thể để
hành động, gợi ý cho trẻ cách giải quyết nhiệm vụ.
Yêu cầu tạo ra tình huống đặc biệt là tình huống mang tính có vấn đề, mang tính tìm
kiếm cần phải: đảm bảo vai trò chủ thể tích cực của trẻ, tính định hướng, tính phát triện của
hoạt động; tình huống có tính vấn đề phải được xây dựng như thế nào đó, sao cho trẻ chiếm
lĩnh được đối tượng nghiên cứu qua con đường tìm tòi, tích cực khám phá thế giới xung
quanh; tình huống có tính vấn đề phải có sức hấp dẫn lôi cuốn trẻ và kích thích long mong
muốn giải quyết các tình huống đó của trẻ; phù hợp với đặc điểm nhận thức đặc biệt là tư duy
của trẻ.
Tình huống mang tính nêu vấn đề, tính tìm kiếm chính là việc giáo viên tạo ra tình
huống mới, đòi hỏi trẻ phải giải quyết nhiệm vụ bằng phương thức mới.
Khi tổ chức hoạt động cho trẻ, cô giáo đắt ra cho trẻ những nhiệm vụ đồng thời tạo cho
trẻ có cơ hội, khả năng tự trẻ có thể tìm kiếm những phương tiện, tự vận dụng vốn kinh
nghiệm sẵn có để giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra. Giáo viên cần tạo cho trẻ MG phát huy tính
tích cực, tính độc lập và sang kiến của chúng trong các hoạt động ở trường mầm non.
Khi đã tạo ra tình huống cho trẻ, cô giáo là người dẫn dắt trẻ vào tình huống đó, giúp
trẻ ý thức được nhiệm vụ đã đặt ra với trẻ.
Giáo viên không đưa ra cách giải quyết mà chỉ hướng dẫn, gợi ý hoặc hỏi câu hỏi định
hướng cho trẻ buộc trẻ phải suy nghĩ và tìm ra phương án thích hợp để giải quyết nhiệm vụ.
Điều kiện thực hiện:

25



Khái niệm

Theo Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên 2004 [2], giáo dục là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy – giáo dục của một nước; là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.

Theo Từ điển Tiếng Anh [3], giáo dục (education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học.

Từ điển Bách khoa toàn thư (Wikipedia) đưa ra định nghĩa “Giáo dục tuổi ấu thơ hay giáo dục cho trẻ nhỏ, là khái niệm chỉ việc giáo dục trong những năm tháng đầu của cuộc đời, từ khi sinh ra đến khi 8 tuổi, một trong những giai đoạn nhạy cảm nhất trong cuộc đời con người”.

Theo Luật giáo dục 2005 [4] quy định vai trò và mục tiêu của giáo dục mầm non “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi”. Ngành học mầm non có các bậc học là nhà trẻ, mầm non và mẫu giáo, thực hiện chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi tạo thành một quá trình giáo dục thống nhất liên tục.

Như vậy, tổng hợp khái niệm giáo dục mầm non theo các từ điển tiếng việt, tiếng Anh và theo quy định của Luật giáo dục, theo tác giả “giáo dục mầm non là khái niệm chỉ việc tác động một cách có hệ thống thông qua việc nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ trẻ trong độ tuổi mầm non từ 3 tháng đến 72 tháng tuổi nhằm hình thành và phát triển tính cách, tâm sinh lý và trí tuệ cho trẻ”.

Giáo dục mầm non giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục con người vì trẻ sẽ nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục một cách khoa học điều độ tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt nhất về mọi mặt. Giai đoạn phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non có tính quyết định đến thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ của trẻ trong suốt cả cuộc đời. Đây là thời kỳ tăng trưởng về cơ thể và phát triển các mặt trí tuệ, tình cảm, xã hội nhanh nhất, nhân cách bắt đầu hình thành, khối lượng thu hoạch rất lớn nên sự phát triển trong những năm đó có tác dụng quyết định rất lớn đến toàn bộ tương lai sau này. Ngược lại, những trục trặc về tăng trưởng và phát triển trong thời kỳ này nếu không được phát hiện và khắc phục kịp thời có thể để lại những hậu quả lâu dài, ảnh hưởng không ít đến việc rèn luyện những năng lực cần thiết mai sau.

Nhà giáo dục Xô viết lỗi lạc A.S Makarenko cho rằng những cơ sở căn bản của việc giáo dục trẻ đã được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy cho trẻ trong thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau việc giáo dục con người vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, còn những nụ hoa thì đã được vun trồng trong 5 năm đầu tiên.

Trẻ mầm non rất nhạy cảm với các tác động bên ngoài, trong đó có các tác động giáo dục ở trường mầm non là nơi giáo dục tốt nhất cho trẻ. Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở các bậc học tiếp theo, chất lượng giáo dục mầm non quyết định tới sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Có thể nói nhân cách con người trong tương lai như thế nào phụ thuộc lớn vào sự giáo dục của trẻ trường mầm non.

Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm lý, sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính chất nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở những cấp học tiếp theo và học tập suốt đời.

Mục tiêu GD cụ thể cho từng độ tuổi: Trẻ nhà trẻ và trẻ mẫu giáo chú trọng đến phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ của trẻ [4].

Giáo dục học mầm non là gì

Giáo Dục Mầm Non là gì?

Tương tự: Sư Phạm Mầm Non
Giáo dục mầm non hay còn gọi là Sư phạm mầm non là công việc chăm sóc, dạy dỗ trẻ dưới 6 tuổi, là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục, đặt nền móng cho sự phát triển của trẻ em cả về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình giáo dục mầm non sẽ là bước đệm cho việc học tập và thành công sau này của trẻ. Do vậy, phát triển giáo dục mầm non, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ em là yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

Giáo dục mầm nonlà một hình thứcgiáo dụctrong những năm đầu của trẻ với độ tuổi tầm 0 tới 6 tuổi. Người ta thường gọi hình thức này là nhà trẻ haymẫu giáo. Trong hình thứcgiáo dục mầm non, trẻ em sẽ được tiếp nhận và hỗ trợ đối vớisựphát triển của xã hội, cung cấp các kỹ năng vận động và phối hợp.

Vì vậy, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục, tạo tiền đề cho các bé bước vào lớp một, bước vào giai đoạn giáo dục phổ thông nhằm góp phần đưa sự nghiệp giáo dục phát triển hơn. Để thực hiện được điều này, giáo dục mầm non cần tập trung ưu tiên các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất, nhân lực, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng đến phát triển ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội, kỹ năng giao tiếp và hiểu biết chung.

Đồng thời, giáo viên mầm non cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định việc học tập và phát triển của trẻ nhỏ. Giáo viên được đào tạo tốt sẽ có nhiều tương tác với trẻ tích cực hơn, nhanh nhạy hơn, thích ứng hơn, cung cấp những trải nghiệm về phát triển nhận thức và ngôn ngữ phong phú hơn.

Giáo trình giáo dục học mầm non

  • doc
  • 297 trang

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
(Dành cho hệ Cao đẳng Sư phạm Mầm non)
Tác giả: Đinh Văn Vang

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
MẦM NON
I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC HỌC
MẦM NON
“Giáo dục học là khoa học về lí luận và thực tiễn nhằm nghiên cứu
những vấn đề cơ bản như giáo dục, giáo dưỡng, dạy học…”
Như vậy, có thể hiểu một cách khái lược nhất: Giáo dục học là khoa
học về giáo dục con người. Giáo dục học mầm non là một bộ phận, một
chuyên ngành của giáo dục học. Với tư cách là một khoa học, Giáo dục học
mầm non có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu đặc trưng của
nó.
1. Đối tượng của giáo dục học mầm non
Con người là đối tượng của nhiều ngành khoa học (triết học, văn học,
sử học, xã hội học, sinh lí học, tâm lí học…), trong đó, con người cũng chính
là đối tượng của giáo dục.
Giáo dục học mầm non nghiên cứu bản chất của quá trình hình thành
nhân cách trẻ em. Trên cơ sở đó xác định mục đích, mục tiêu giáo dục, xây
dựng nội dung, chỉ ra phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thích hợp
nhằm tổ chức tối ưu quá trình hình thành nhân cách trẻ em trong điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Như vậy, đối tượng của giáo dục học mầm non chính là quá trình giáo
dục trẻ em từ 0– 6 tuổi, được tổ chức và thực hiện một cách có ý thức, có kế
hoạch nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu về nhân cách con người
phát triển toàn diện.
2. Nhiệm vụ của giáo dục học mầm non
Giáo dục học mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề cơ bản sau đây:
 Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo
dục trẻ từ 0– 6 tuổi.
– Xây dựng hệ thống các nguyên tắc giáo dục mầm non.
 Tổ chức các hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non.
– Tìm ra phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình
giáo dục trẻ em.
Ngày nay đường lối đổi mới giáo dục trong thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đã vạch ra cho khoa học giáo dục nói chung và giáo
dục học mầm non nói riêng những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu phù hợp,
đáp ứng các yêu cầu xây dựng và phát triển giáo dục trong giai đoạn mới.
Theo xu thế phát triển chung, giáo dục học mầm non cần nghiên cứu
bổ sung, hoàn chỉnh các vấn đề lí luận cũng như thực tiễn giáo dục mầm non,
đảm bảo vừa có giá trị định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt
động giáo dục mầm non theo hướng đa dạng hoá, xã hội hoá, tạo điều kiện
để hoạt động giáo dục mầm non đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội và
có cơ sở, có điều kiện hội nhập, tham gia vào hoạt động giáo dục mầm non
trên thế giới và khu vực.
Sau đây là một số định hướng nghiên cứu của khoa học giáo dục mầm
non trong giai đoạn hiện nay:

– Nghiên cứu tổng thể hiện trạng giáo dục mầm non ở từng khu vực để
đánh giá chính xác tình hình, có giải pháp từng bước giải quyết các mâu
thuẫn, bất cập.
 Nghiên cứu hoàn thiện mục tiêu giáo dục mầm non, đáp ứng yêu cầu
của xã hội trong giai đoạn đổi mới.
 Nghiên cứu nhu cầu của xã hội đối với giáo dục mầm non trong tình
hình hiện nay và xu thế phát triển của nó.
– Nghiên cứu các loại hình giáo dục mầm non, xu thế và khả năng phát
triển của loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục ở từng khu vực.
Nghiên cứu các mô hình khả thi đặc trưng, thích hợp cho từng vùng, miền.
– Nghiên cứu các giải pháp phát triển giáo dục mầm non ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, ưu tiên xây dựng chính sách đảm bảo công bằng xã hội,
hỗ trợ người nghèo…
 Nghiên cứu các điều kiện đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng
chăm sóc – giáo dục trẻ.
– Nghiên cứu đổi mới công tác quản lí giáo dục mầm non.
– Nghiên cứu các giải pháp đào tạo giáo viên nhằm tăng cường số
lượng và đảm bảo chất lượng.
– Xác định rõ những tiêu chí cơ bản trong việc đánh giá, phân loại chất
lượng ở mỗi cơ sở giáo dục mầm non của mỗi địa phương theo chuẩn quốc
gia.
 Nghiên cứu, bổ sung các thuật ngữ trong giáo dục mầm non.
Giáo dục mầm non gắn liền và chịu ảnh hưởng trực tiếp trong sự phát
triển chung của xã hội, không chỉ vì trẻ em là nguồn nhân lực tương lai của
đất nước mà còn vì cha mẹ của các em là nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu giáo dục học mầm non
chính là góp phần đổi mới những vấn đề liên quan tới phát triển nguồn nhân

lực – một yếu tố cực kì quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nói trên, giáo dục học mầm non phải dựa
trên các thành tựu của khoa học hiện đại nghiên cứu về sự phát triển của trẻ
em dưới 6 tuổi và liên kết phối hợp chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác
trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này.
3. Phương pháp nghiên cứu giáo dục học mầm non
Khi nghiên cứu giáo dục học mầm non với tư cách là một chuyên
ngành của giáo dục học, chúng ta cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học giáo dục nói chung, nhưng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng,
phải đặc biệt chú ý một số phương pháp sau:
3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Các phương pháp ngiên cứu lí luận là những cách thức thu thập và xử
lí thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản tài liệu đã có bằng
các thao tác tư duy lôgic để rút ra kết luận khoa học hoặc xây dựng hệ thống
lí thuyết cho vấn đề nghiên cứu mới.
Những kết luận khoa học hoặc hệ thống lí thuyết mới thường được thể
hiện ở một trong những hướng sau:
– Khẳng định hay phủ định những luận điểm khoa học giáo dục mầm
non đang được bàn luận hay tranh cãi.
 Phê phán những sai lầm, thiếu sót, hạn chế của hệ thống lí thuyết
trước đây.
– Kế thừa, phát triển những chân lí khách quan của những lí thuyết
trước đây.
Trong nghiên cứu khoa học nói chung, khoa học giáo dục mầm non nói
riêng, nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận gồm một số phương pháp sau
đây:

– Phương pháp phân tích – tổng hợp lí thuyết. Đó là phương pháp liên
kết từng mặt, từng bộ phận của thông tin khoa học đã thu thập được nhờ
phân tích các văn bản tài liệu nhằm tạo ra một hệ thống lí thuyết mới đầy đủ
và sâu sắc về lĩnh vực nghiên cứu.
– Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lí thuyết. Đó là phương pháp
sắp xếp tri thức khoa học đã được phân thành từng mặt, từng vấn đề khoa
học có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển,… thành một hệ
thống nhằm xây dựng một hệ thống lí thuyết mới hoàn chỉnh.
 Phương pháp cụ thể hoá lí thuyết là phương pháp nghiên cứu nhằm
minh hoạ và mô hình hoá lí thuyết làm cho lí thuyết được sáng tỏ.
– Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu bằng cách dự
đoán những thuộc tính và quy luật phát triển của đối tượng để chỉ đường cho
việc chứng minh những điều dự đoán đó là đúng.
3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập các thông tin về đối tượng
nghiên cứu bằng cách tri giác có chủ định đối tượng và các yếu tố liên quan
đến đối tượng.
Ví dụ: Quan sát trẻ mẫu giáo trong giờ chơi để thu thập thông tin về
hứng thú chơi của trẻ.
Phương pháp quan sát sư phạm trong giáo dục mầm non được phân
thành các loại như sau:
– Quan sát trực tiếp – quan sát gián tiếp.
 Quan sát toàn diện – quan sát có bố trí.
– Quan sát lâu dài – quan sát thời gian ngắn.
 Quan sát phát hiện – quan sát kiểm nghiệm.
Muốn quan sát đạt hiệu quả cao cần đảm bảo những yêu cầu:

– Xác định mục đích quan sát rõ ràng (quan sát để làm gì?)
– Xây dựng kế hoạch, tiến trình quan sát.
 Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: lí luận, thực tiễn, các phương tiện cần
thiết có liên quan đến mục đích quan sát.
– Tiến hành quan sát cẩn thận và có hệ thống.
– Ghi chép khách quan, chính xác (các sự kiện, hiện tượng, số liệu
đúng như đối tượng bộc lộ).
– Lưu giữ tài liệu quan sát phải cẩn thận và dễ sử dụng.
Phương pháp quan sát sư phạm có khả năng thu thập được nhiều tài
liệu cụ thể, sinh động, tự nhiên, làm cơ sở cho quá trình tư duy khoa học.
Song dây là phương pháp dễ đưa người nghiên cứu rơi vào thế bị động bởi
những yếu tố nhiễu không liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu. Mặt khác, kết
quả nghiên cứu theo phương pháp này phụ thuộc nhiều vào chủ quan của
người quan sát, nếu người quan sát không được trang bị những tri thức và kĩ
năng sử dụng phương pháp này thì sẽ dẫn tới tình trạng tài liệu thu được
thiếu khách quan, không đảm bảo chất lượng.
3.2.2. Phương pháp trò chuyện (đàm thoại)
Trò chuyện là phương pháp đặt ra câu hỏi cho người đối thoại và dựa
vào câu trả lời của họ để thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu.
Ví dụ: Trọ chuyện với giáo viên, trò chuyện với trẻ em.
Trò chuyện được phân thành các loại sau đây:
– Trò chuyện trực tiếp.
 Trò chuyện gián tiếp.
 Trò chuyện thẳng.
– Trò chuyện đường vòng.
 Trò chuyện bổ sung.

 Trò chuyện đi sâu.
 Trò chuyện phát hiện.
– Trò chuyện kiểm nghiệm.
Tuỳ theo mục đích, điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của đối tượng mà
vận dụng các hình thức trò chuyện cho phù hợp.
Khi trò chuyện, muốn thu được tài liệu có chất lượng phải tôn trọng các
yêu cầu:
– Xác định rõ mục đích, yêu cầu.
 Cần tìm hiểu người đối thoại để lựa chọn cách trò chuyện cho phù
hợp (hiểu tính cách, hứng thú, năng lực, khí chất, hoàn cảnh…).
– Quá trình trò chuyện phải có ý thức khéo léo lái câu chuyện vào đúng
mục đích, tránh tràn lan làm loãng chủ đề.
– Cần tạo không khí tự nhiên, thân mật, cởi mở trong khi trò chuyện.
Không nhất thiết phải ghi chép các câu trả lời của đối tượng.
Phỏng vấn cũng là một dạng của đàm thoại, các câu hỏi phải chuẩn bị
trước và được hỏi theo một trình tự nhất định, các câu trả lời cần được ghi
chép một cách công khai. Trong phỏng vấn, người ta dùng cả phương tiện kỹ
thuật hiện đại như máy ảnh, máy ghi âm hoặc ghi hình để giữ lại tư liệu
nghiên cứu.
3.2.3. Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một
số lượng đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến của họ về một vấn đề
nào đó.
Ý kiến trả lời có thể được viết ra hoặc trình bày bằng miệng do người
điều tra ghi lại.
Điều tra có thể phân loại như sau:

– Điều tra thăm dò (câu hỏi rộng và nông) nhằm thu thập tài liệu ở mức
sơ bộ về đối tượng.
– Điều tra đi sâu (câu hỏi hẹp và đi sâu) nhằm khai thác sâu sắc một
vài khía cạnh nào đó của đối tượng nghiên cứu.
– Điều tra bổ sung nhằm thu thập tài liệu bổ sung cho các phương pháp
khác.
Căn cứ vào mục đích, tính chất của việc điều tra, người ta có thể sử
dụng nhiều dạng câu hỏi khác nhau:
+ Câu hỏi “đóng” là những câu hỏi có kèm theo phương án trả lời.
Người được trưng cầu ý kiến có thể lựa chọn một hoặc vài ba phương án phù
hợp với mình.
+ Câu hỏi “mở” là những câu hỏi không có phương án trả lời sẵn và
người được trưng cầu ý kiến tự trả lời.
Sử dụng phương pháp điều tra có thể trong một khoảng thời gian ngắn
thu thập được ý kiến của nhiều người ở một phạm vi rộng, tuy nhiên, độ tin
cậy của tài liệu thu được bị hạn chế, bởi vì nó phụ thuộc vào chủ quan của
người trả lời.
Để có tài liệu tương đối chính xác phải điều tra số lượng người đủ lớn.
Các câu hỏi cần xây dựng theo một hệ thống, chúng ràng buộc lẫn nhau,
kiểm tra lẫn nhau để có thể buộc người trả lời phải bộc lộ ý nghĩ thật của
mình.
3.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là phương pháp đi từ thực tiễn giáo dục,
dùng lí luận phân tích thực tiễn, từ phân tích thực tiễn mà rút ra lí luận.
Trong khoa học giáo dục nói chung và giáo dục học mầm non nói riêng,
tổng kết kinh nghiệm, tức là dùng cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, dùng tri thức về khoa học giáo dục
mầm non và các khoa học khác để tìm hiểu, phân tích, đánh giá các kinh

nghiệm có tác dụng tích cực trong thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra những bài
học mang tính lí luận, lí luận đó được chỉ đạo trở lại thực tiễn giáo dục.
Ví dụ: Kinh nghiệm phòng chống trẻ suy dinh dưỡng ở trường mầm
non; kinh nghiệm huy động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo; kinh nghiệm của các
điển hình tiên tiến trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ; kinh nghiệm quản lí
của hiệu trưởng trường mầm non…
Khi sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục cần đảm bảo
một số yêu cầu sau:
 Phát hiện xác định đúng đối tượng nghiên cứu. Tức là kinh nghiệm có
thật và đang tồn tại chứ không phải là những dự định sẽ làm hoặc đã làm
nhưng chưa tới mức gọi là kinh nghiệm. Muốn vậy phải kiểm tra kĩ và đánh
giá chính xác hiệu quả đã đạt được do kinh nghiệm mang lại.
– Khi thu thập, xử lí các số liệu phải hết sức khách quan. Muốn vậy
phải thu thập, xử lí thông tin từ nhiều nguồn và bằng nhiều phương pháp khác
nhau như: Phương pháp trò chuyện, phương pháp quan sát, phương pháp
điều tra.
 Những lí luận tổng kết từ kinh nghiệm cần tiếp tục khẳng định và phát
triển, đồng thời phải đem ứng dụng vào thực tế để “nhân” kinh nghiệm bằng
cách chỉ đạo điểm hoặc thực nghiệm khoa học.
3.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp tìm hiểu con người
thông qua sản phẩm do họ tạo ra.
Ví dụ: Nghiên cứu sản phẩm nặn, vẽ, xé, dán của trẻ mẫu giáo 5 tuổi
để hiểu đặc điểm và khả năng sáng tạo của trẻ. Hoặc nghiên cứu sản phẩm
của giáo viên mầm non để hiểu về chính họ.
Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần nắm được đầy đủ điều kiện và
quá trình hoạt động của con người đưa đến sản phẩm. Tức là chúng ta không
chỉ tìm hiểu con người làm ra cái gì, mà quan trọng hơn là làm như thế nào?

Bởi vì các sản phẩm và năng lực của con người thường bộc lộ qua những
điều kiện và quá trình làm ra sản phẩm.
3.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu một cách chủ động,
có hệ thống một hiện tượng giáo dục nhằm xác định mối quan hệ giữa tác
động giáo dục với hiện tượng giáo dục cần được nghiên cứu trong những
điều kiện đã được khống chế.
Nét đặc trưng của phương pháp thực nghiệm sư phạm là nhà nghiên
cứu chủ động tạo ra điều kiện nghiên cứu và khi cần thiết có thể lặp lại nhiều
lần điều kiện đó.
Thường có hai loại thực nghiệm: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm
trong phòng thí nghiệm.
– Thực nghiệm tự nhiên là những thực nghiệm được tiến hành trong
điều kiện bình thường của quá trình sư phạm.
– Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là nhân thực nghiệm được tiến
hành trong điều kiện khống chế nhằm xác định mặt định tính, định lượng và
bản chất của hiện tượng giáo dục.
Phương pháp thực nghiệm cho phép người nghiên cứu tìm hiểu sâu
bản chất của hiện tượng giáo dục để từ đó phát hiện ra cái mới, nhưng đây là
phương pháp đòi hỏi sự chuẩn bị công phu cả về lí luận cũng như công việc
và trang thiết bị kĩ thuật khi tiến hành thực nghiệm.
Thực nghiệm sư phạm có thể được tiến hành theo các bước sau đây:
Bước 1: Xác định được vấn đề thực nghiệm với mục đích rõ ràng.
Bước 2: Nêu giả thuyết và xây dựng đề cương thực nghiệm.
Bước 3: Tổ chức thực nghiệm
Gồm các công việc:
– Chọn mẫu thực nghiệm.

 Bồi dưỡng cộng tác viên.
– Theo dõi thực nghiệm: quan sát, ghi chép, đo đạc.
Bước 4: Xử lí kết quả thực nghiệm, rút ra kết luận khoa học.
Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh, nhiều phương tiện kĩ
thuật hiện đại được sử dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục. Máy vi tính
là một phương tiện hiện đại giúp cho việc xử lí kết quả thực nghiệm nhanh,
chính xác và tiện lợi.
Yêu cầu nghiêm ngặt của thực nghiệm sư phạm là khi tiến hành thực
nghiệm sư phạm không được làm đảo lộn hoạt động bình thường của quá
trình sư phạm, và chỉ tiến hành trong những điều kiện và tiêu chuẩn nghiêm
ngặt với luận cứ khoa học để đảm bảo việc đưa những cái mới đã được kiểm
tra vào quá trình sư phạm.
4. Mối liên hệ giữa giáo dục học mầm non với các khoa học khác
Giáo dục học mầm non là khoa học nghiên cứu việc giáo dục con
người ở độ tuổi từ 0 đến 6 tuổi, có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa
học như triết học, sinh lí học, tâm lí học, xã hội học, đạo đức học, điều khiển
học v.v…
4.1. Với triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung nhất của thế giới
về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Giáo dục học mầm
non lấy triết học duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận để có cách
tiếp cận đúng đắn với con người trong việc xây dựng lí luận khoa học và tổ
chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em.
4.2. Với sinh lí học
Sinh lí học được coi là cơ sở tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên
cứu giáo dục học mầm non phải dựa vào các dữ kiện của sinh lí học về sự
phát triển của hệ thần kinh cấp cao, về đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ

nhất và thứ hai, về sự phát triển của các cơ quan cảm giác và vận động, về
nhu cầu của cơ thể v.v…
Chẳng hạn, từ đặc điểm phát triển của trẻ em từ 0 – 6 tuổi mà chúng ta
xây dựng chế độ sinh hoạt trong ngày của trẻ, chế độ dinh dưỡng, học tập,
vận động một cách khoa học.
Những thành tựu khoa học mới về sinh lí trẻ em làm thay đổi cả lí luận
và thực tiễn giáo dục mầm non.
4.3. Với tâm lí học
Tâm lí học trang bị cho giáo dục học cơ sở khoa học về việc xây dựng lí
luận và tổ chức hoạt động thực tiễn giáo dục trẻ em theo các thời kì, với
những đặc điểm phát triển tâm lí theo lứa tuổi.
Hiểu một cách ngắn gọn thì tâm lí học là cơ sở khoa học của giáo dục
học. Chỉ có hiểu biết tâm lí trẻ em mới có thể tổ chức khoa học quá trình giáo
dục trẻ em và tránh được sự áp đặt đối với trẻ.
4.4. Với điều khiển học
Điều khiển học là khoa học điều khiển tối ưu các hệ thống động phức
tạp. Là khoa học nghiên cứu lôgic của những quá trình trong tự nhiên và xã
hội, xác định những cái chung, quy định những điều kiện vận hành các quá
trình đó.
Dựa vào lí thuyết điều khiển học, chúng ta có thể điều khiển quá trình
dạy học và giáo dục đạt hiệu quả tối ưu.
4.5. Với đạo đức học và mĩ học
Đạo đức học, mĩ học giúp cho việc xây dựng cơ sở phương pháp luận
và xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đạo đức giáo
dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non.
Tóm lại: Giáo dục học mầm non có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khoa
học khác nhau và dựa trên các thành tựu nghiên cứu về con người của các
ngành khoa học, giáo dục học mầm non để từng bước hoàn thiện lí luận khoa

học của mình và ngày càng đem đến hiệu quả cao cho công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em.

II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC MẦM NON
1. Mục tiêu giáo dục mầm non
Như chúng ta đã biết, mục đích giáo dục là mô hình nhân cách tổng thể
đón trước sự phát triển của mỗi học sinh – mỗi người lao động tương lai của
đất nước phải đạt được trong một giai đoạn lịch, sử cụ thể, ứng với một nền
sản xuất nhất định. Mục đích giáo dục nói chung được thực hiện từng phần,
từng mức độ ở từng lứa tuổi, từng cấp học qua từng giai đoạn phát triển nhất
định của mỗi người. Mục đích giáo dục bộ phận được gọi là mục tiêu giáo
dục, ví dụ: mục tiêu giáo dục mầm non, mục tiêu giáo dục tiểu học, mục tiêu
giáo dục trung học, mục tiêu giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp –
dạy nghề…
Mục tiêu giáo dục mầm non thể hiện ở việc xác định mục tiêu chung và
những yêu cầu chủ yếu đối với việc phát triển nhân cách mà trẻ em Việt Nam
đến 6 tuổi (trước khi bước vào lớp Một) phải đạt được qua việc nhận sự giáo
dục của gia đình và trường mầm non.
1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục mầm non nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi
đến sáu tuổi (Điều 21– Luật Giáo dục 2005).
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ em vào lớp Một (Điều 22– Luật Giáo dục 2005).
Mục tiêu giáo dục mầm non được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn tuổi
nhà trẻ và giai đoạn tuổi mẫu giáo. Mục tiêu của mỗi giai đoạn được xác định
là cái đích mà cuối giai đoạn đó trẻ phải đạt được nhờ sự chăm sóc, giáo dục
của người lớn. Những mục tiêu này được thể hiện trong Quyết định số:

5205/QĐ–BGD&ĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Cụ thể là:
1.1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi nhà trẻ
a) Phát triển thể chất
 Trẻ khoẻ mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm
trong kênh A.
– Thực hiện được các vận động cơ bản.
– Thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường mầm non.
– Có một số thói quen tự phục vụ trong ăn uống, vệ sinh cá nhân.
b) Phát triển nhận thức
– Thích tìm hiểu thế giới xung quanh.
 Có sự nhạy cảm của các giác quan: vị giác, khứu giác, xúc giác, thính
giác, thị giác.
– Nhận biết được về bản thân, một số sự vật, hiện tượng quen thuộc
gần gũi.
– Có khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy trực quan–
hành động và tư duy trực quan– hình ảnh.
c) Phát triển ngôn ngữ
– Nghe, hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói của người khác.
– Diễn đạt được các nhu cầu đơn giản bằng lời nói.
– Có khả năng hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản.
d) Phát triển tình cảm – xã hội
– Mạnh dạn giao tiếp với những người gần gũi.
– Biết được một số việc được phép làm và không được phép làm.
 Biết thể hiện cảm xúc trước cái đẹp. Thích múa, hát, đọc thơ, nghe kể
chuyện, vẽ, nặn, lắp ghép, xếp hình…

– Thích tự làm một số công việc đơn giản.
1.1.2. Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi mẫu giáo
a) Phát triển thể chất
– Trẻ khoẻ mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm
trong kênh A.
– Thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững vàng, đúng tư
thế.
– Có khả năng phối hợp các giác quan và vận động; vận động nhịp
nhàng, biết định hướng trong không gian.
– Thực hiện được một số vận động của đôi tay một cách khéo léo.
 Có một số thói quen, kỹ năng tốt về giữ gìn sức khoẻ, vệ sinh cá
nhân, vệ sinh môi trường và biết cách đảm bảo sự an toàn.
b) Phát triển nhận thức
 Ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi những sự vật hiện tượng xung
quanh.
– Có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý và ghi
nhớ có chủ định. Nhận ra một số mối liên hệ đơn giản của các sự vật hiện
tượng xung quanh.
– Có một số hiểu biết ban đầu về bản thân, môi trường tự nhiên và xã
hội.
c) Phát triển ngôn ngữ
– Nghe và hiểu được lời nói trong giao tiếp.
– Có khả năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng để thể hiện ý muốn, cảm
xúc của mình và của người khác.
– Có một số biểu tượng về việc đọc và việc viết để vào học lớp Một.
d) Phát triển tình cảm – xã hội

– Mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin, lễ phép trong giao tiếp.
– Nhận ra một số trạng thái cảm xúc và thể hiện tình cảm phù hợp với
đối tượng và hoàn cảnh cụ thể.
 Thực hiện một số quy định đơn giản trong sinh hoạt. Có ý thức tự
phục vụ, kiên trì thực hiện công việc được giao.
– Yêu quý gia đình, trường lớp mầm non và nơi sinh sống.
 Quan tâm, chia sẻ, hợp tác với những người gần gũi.
– Quan tâm chăm sóc vật nuôi, cây trồng và bảo vệ môi trường.
e) Phát triển thẩm mĩ
– Cảm nhận được vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và trong tác
phẩm nghệ thuật.
– Có nhu cầu, hứng thú khi tham gia vào các hoạt động hát, múa, vận
động theo nhạc, đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch… và biết thể hiện cảm xúc
sáng tạo thông qua các hoạt động đó.
1.2. Những yêu cầu cần đạt được đối với trẻ em từng độ tuổi trong
lứa tuổi mầm non
Trên đây là mục tiêu chung – mục tiêu khái quát đến 6 tuổi trẻ em cần
đạt được. Điều này được cụ thể hoá theo từng độ tuổi với từng mức độ yêu
cầu khác nhau (6 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng… cho đến 6 tuổi).
Căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng địa phương, yêu cầu
phát triển của nền kinh tế – xã hội ở từng địa phương mà các nhà giáo dục
mầm non cần thực hiện mọi yêu cầu đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo trong
Chương trình giáo dục mầm non ban hành theo Quyết định số:
5205QĐ/BGDĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006.
2. Nhiệm vụ của giáo dục mầm non
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục mầm non có những nhiệm vụ cơ bản
sau đây:

– Không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp chăm sóc – giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ.
– Thu hút ngày càng nhiều trẻ em trong độ tuổi vào các loại hình chăm
sóc – giáo dục trẻ thích hợp, trong đó nòng cốt là các nhà trẻ, trường mầm
non để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mầm non mà Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ban hành.
– Kết hợp chặt chẽ với gia đình và các tổ chức xã hội trong công tác
chăm sóc – giáo dục trẻ em.

III. BẬC HỌC MẦM NON TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
1. Cơ Cấu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Theo Luật Giáo dục 2005, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện
nay gồm bốn bậc giáo dục sau đây:
 Giáo dục mầm non: Thực hiện việc chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3
tháng tuổi đến 6 tuổi. Bậc học mầm non gồm các cơ sở sau:
+ Nhà trẻ, nhóm trẻ: Nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi.
+ Trường, lớp mẫu giáo: Nhận trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi.
+ Trường mầm non: là cơ sở kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em
từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi.
– Giáo dục phổ thông: Nhận giáo dục trẻ em từ 6 tuổi đến 18 tuổi. Giáo
dục phổ thông được chia làm ba bậc nhỏ:
+ Giáo dục tiểu học: Được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp
5. Tuổi của học sinh lớp 1 là 6 tuổi.
+ Giáo dục trung học cơ sở: Thực hiện trong 4 năm, từ lớp 6 đến lớp 9.
Học sinh vào lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là 10 tuổi.
+ Giáo dục trung học phổ thông: Thực hiện trong 3 năm, từ lớp 10 đến
lớp 12. Học sinh vào lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi
là 15 tuổi.

– Giáo dục nghề nghiệp: Nhận đào tạo công nhân và cán bộ thực hành
cho các lĩnh vực kinh tế và văn hoá xã hội. Bậc giáo dục nghề nghiệp gồm hai
loại trường:
+ Trường trung cấp chuyên nghiệp: Tiếp nhận học sinh tốt nghiệp trung
học cơ sở hoặc trung học phổ thông để đào tạo. Mục tiêu của trường trung
cấp chuyên nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kĩ năng thực hành
cơ bản một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng
công nghệ vào công việc.
+ Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, lớp dạy nghề, nhằm
đào tạo nguồn nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực
thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
– Giáo dục đại học: Tiếp nhận những học sinh khá, giỏi được sàng lọc
qua các kì thi tuyển sinh để đào tạo thành những chuyên gia cho các lĩnh vực
khoa học và nghiệp vụ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Giáo dục đại học gồm 4 trình độ đào tạo:
+ Trình độ cao đẳng đào từ 2 đến 3 năm học tuỳ theo ngành nghề đào
tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc có bằng tốt nghiệp trung cấp;
từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng
chuyên ngành.
+ Trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tuỳ theo ngành
nghề đào tạo đối với người có bằng tất nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp
trung cấp; từ 2,5 năm đến 4 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung
cấp cùng chuyên ngành; từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với người có bằng tốt
nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.
+ Trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học.
+ Trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm học đối với người có bằng thạc sĩ.

Các trường đại học đào tạo cán bộ có trình độ cao đẳng, trình độ đại
học (đào tạo trình độ đại học là chủ yếu); đào tạo cán bộ có trình độ thạc sĩ,
trình độ tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
2. Bậc học mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên – bậc học nền tảng trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Như đã trình bày trên đây, mục tiêu của giáo dục
mầm non là xây dựng cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn
diện. Những cơ sở ban đầu này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nhân cách
sau này. Giáo dục mầm non chưa cần phải trang bị cho trẻ một cách đầy đủ
và hoàn chỉnh những gì mà một người cần có để tham gia vào đời sống xã
hội như một người lớn thực thụ. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục mầm non là
hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu về nhân cách con người mới, làm
cho trẻ phát triển toàn diện, hài hoà và cân đối, tạo điều kiện tốt cho những
bước phát triển sau này; xây dựng cho mỗi đứa trẻ một nền tảng nhân cách
vừa khoẻ khoắn, vừa mềm mại, đầy sức sống về cả thể chất lẫn tinh thần. Có
nghĩa là giáo dục mầm non một mặt cần làm cho trẻ hồn nhiên, vui tươi tích
cực, chủ động,... mặt khác giáo dục mầm non lại phải ngay từ đầu hướng sự
phát triển của trẻ vào việc hình thành những tiền đề nhân cách con người
mới, chuẩn bị cho trẻ khả năng học tập tốt, sống và làm việc phù hợp với xã
hội mới.
Bậc học mầm non là một bậc học đặc biệt trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Đối tượng của bậc học này là những trẻ nhỏ (từ 0 đến 6 tuổi). Đây là thời
kì phát triển mạnh mẽ nhất trong cuộc đời về cả thể chất lẫn tâm lí, tinh thần.
Phương thức giáo dục ở lứa tuổi này vừa mang màu sắc gia đình vừa mang
màu sắc nhà trường. Quan hệ giữa người dạy và người học vừa mang màu
sắc thầy – trò vừa mang màu sắc mẹ – con (“cô giáo như mẹ hiền”). Phương
châm giáo dục chủ đạo ở lứa tuổi này là: “Học mà chơi, chơi mà học”. Nội
dung giáo dục ở lứa tuổi này mang tính tích hợp.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy nêu đối tượng và nhiệm vụ của giáo dục học mầm non.

2. Hãy trình bày các phương pháp nghiên cứu của giáo dục học mầm
non.
3. Phân tích khái niệm mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục
mầm non.
4. Chứng minh rằng bậc học mầm non là bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân.
BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Dựa vào xu thế phát triển của xã hội và thời đại rút ra nhận xét về
chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam hiện hành.
2. Theo dõi, ghi chép, mô tả về quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của một trẻ em mà bạn gần gũi.

Chương 2. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON
I. NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA
TUỔI MẦM NON
1. Cơ sở triết học
Cũng như các lĩnh vực khoa học khác, triết học duy vật biện chứng là
cơ sở phương pháp luận của khoa học giáo dục nói chung và khoa học giáo
dục mầm non nói riêng. Ở đây, triết học duy vật biện chứng cung cấp cơ sở
khoa học cho việc xác định bản chất con người, nguồn gốc của ý thức và mối
quan hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình khác, chỉ ra nguyên lí của
sự phát triển nhân cách con người… Trên cơ sở này, các nhà giáo dục xây
dựng mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục mầm non.
Trước hết, về bản chất con người, các nhà triết học duy vật biện chứng
khẳng định rằng, con người không phải do Thượng đế sinh ra mà con người
vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng lẻ. Trong tính

Tải về bản full

1. Khái niệm giáo dục

Theo từ “Giáo dục” tiếng Anh –“Education” –vốn có gốc từ tiếng La tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Có thể hiểu giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục.Giáo dục bao gồm việc dạy học và giáo dục (nghĩa hẹp). Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh.Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành tố có quan hệ biện chứng với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện, hình thức tổ chức và kiểm tra đánh giá.

Sự giáo dục của mỗi cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra (thậm chí bắt đầu trước khi sinh ra, gọi là “thai giáo”) và tiếp tục trong suốt cuộc đời. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến kết quả giáo dục mầm non.

Giáo dục học mầm non là gì

Khái niệm giáo dục và giáo dục mần non là gì?

Nếu bạn đang gặp khó khăn trong quá trình làm luận văn, tiểu luận về ngành Quản lý giáo dục hãy tham khảo dịch vụ viết thuêluận văn thạc sĩ Quản lý giáo dụccủa chúng tôi để được hỗ trợ tốt nhất.

Ngành Giáo Dục Mầm Non Là Gì? Tính Chất & Giới Thiệu

  • Giáo dục học mầm non là gì
  • Giáo dục học mầm non là gì
  • Giáo dục học mầm non là gì
  • Giáo dục học mầm non là gì

Ngành giáo dục mầm non là gì? Những công việc của một giáo viên mầm non là gì? Cùng Mighty Math khám phá về ngành này trong bài viết sau đây!

Mục lục

Giáo dục mầm non là ngành học đang rất “hot” trong nhiều năm trở lại đây và được các bạn trẻ đặc biệt yêu thích. Đây là một trong những ngành học mang đến nhiều cơ hội việc làm cho các sinh viên sau khi ra trường. Tuy nhiên có không ít người vẫn chưa thực sự biết được ngành giáo dục mầm non là gì? Khi trở thành một giáo viên mầm non sẽ làm gì? Trong nội dung bài viết dưới đây Mighty Math sẽ cùng các bạn tìm hiểu để trả lời các thắc mắc này nhé.