Hóa chất tồn dư trong loài 2 mảnh vỏ năm 2024

Thân mềm hai mảnh vỏ hay nhuyễn thể hai mảnh vỏ (danh pháp khoa học: Bivalvia, trước đây gọi là Lamellibranchia hay Pelecypoda) hay lớp Chân rìu là một lớp động vật thân mềm. Chúng không có đầu, cũng như dải răng kitin. Lớp này gồm các loài nghêu, hàu, sò nứa, trai, điệp, và một số khác; một phần sống ở nước mặn, phần còn lại ở nước ngọt. Đa số là động vật ăn lọc. Mang tiến hóa thành một bộ phận gọi là ctenidium, một cơ quan dùng để ăn và thở. Chúng thường chôn mình trong trầm tích, nơi chúng tương đối an toàn trước kẻ thù. Một số, như điệp, có thể bơi.

Vỏ được cấu tạo từ calci cacbonat và gồm hai mảnh được dính với nhau. Hai mảnh vỏ thường đối xứng hai bên, kích thước vỏ biến thiên từ dưới một milimet tới hơn một mét, dù đa số không vượt quá 10 cm (4 in).

Tên[sửa | sửa mã nguồn]

Thuật ngữ Bivalvia được sử dụng lần đầu tiên bởi Linnaeus trong ấn bản thứ mười của tác phẩm Systema Naturae năm 1758 để chỉ những động vật có hai mảnh vỏ. Trước đây, chúng còn có tên Pelecypoda, nghĩa là "chân rìu" (dựa trên hình dạng của chân khi vươn ra).

Sự đa dạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài tối đa khi trưởng thành của các loài hai mảnh vỏ biến thiên từ 0,52 mm (0,02 in) ở Condylonucula maya, tới 1.532 milimét (60,3 in) ở Kuphus polythalamia. Tuy nhiên, loài thường được xem là động vật hai mảnh vỏ lớn nhất còn tồn tại là Tridacna gigas, có thể đạt chiều dài 1.200 mm (47 in) và khối lượng 200 kg (441 lb). Loài đã tuyệt chủng lớn nhất được biết tới là Platyceramus với hóa thạch dài 3.000 mm (118 in).

Trong bài luận án năm 2010, Compendium of Bivalves, Markus Huber cho rằng số động vật hai mảnh vỏ còn tồn tại là 9.200 loài kết hợp từ 106 họ.

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Hóa chất tồn dư trong loài 2 mảnh vỏ năm 2024
Trai vằn bám trên một chiếc lưu tốc kế trên hồ Michigan.

Đây là một lớp động vật không xương sống hết sức thành công, hiện diện ở hầu khắp các môi trường thủy sinh. Đa số là động vật sống dưới đáy nước và thường chôn mình dưới trầm tích ở đáy nước. Một lượng lớn loài hai mảnh vỏ được tìm thấy ở vùng triều hay gần bờ. Tại một bãi biển ở Nam Wales, một cuộc kiểm tra cẩn thận cho thấy có 1,44 triệu cá thể Cerastoderma edule trên mỗi mẫu Anh.

Chúng sinh sống ở vùng nhiệt đới, ôn đới và cả vùng cực. Một số có thể sống sót hay thậm chí phát triển trong môi trường khắc nghiệt. Chúng phong phú ở Bắc Cực, với chừng 140 loài đã được biết tới. Adamussium colbecki sống dưới biển băng tại Nam Cực, nơi nhiệt độ âm làm tốc độ phát triển của chúng chậm lại. Bathymodiolus thermophilus và Calyptogena magnifica đều sống quanh miệng phun thủy nhiệt tại vùng biển thẳm ở Thái Bình Dương. Enigmonia aenigmatica là một loài hàu có thể sống lưỡng cư. Chúng sống trên mức triều cường dưới những chiếc lá, những nhánh cây ngập mặn tại vùng nhiệt đới Ấn Độ-Thái Bình Dương.

Vài loài nước ngọt có phân bố rất hạn chế. Ví dụ, Villosa arkansasensis chỉ hiện diện tại những dòng nước từ dãy Ouachita ở Arkansas và Oklahoma, và như nhiều thân mềm hai mảnh vỏ khác ở miền đông nam Hoa Kỳ, chúng đang có nguy cơ tuyệt chủng. Ngược lại, một số khác, như Limnoperna fortunei đang tăng nhanh phạm vi phân bố. L. fortunei có mặt từ Đông Nam Á tới Argentina, nơi chúng là một loài xâm lấn.

The Mục 2 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8710-10:2015 về Bệnh thủy sản - Quy trình chuẩn đoán - Phần 10: Bệnh do Perkinsus Marinus ở nhuyễn thể hai mảnh nhỏ quy định về tác nhân gây nên bệnh Perkinsus marinus ở loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ như sau:

Thuật ngữ và định nghĩa
Trong tiêu chuẩn này sử dụng các thuật ngữ và định nghĩa sau:
2.1. Perkinsus marinus (Perkinsus marinus)
Sinh vật đơn bào thuộc ngành bào tử Apicomplexa (Levine, 1978), ký sinh trên mang, màng áo, tế bào biểu mô ruột, các tổ chức mô liên kết của tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục của nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Chu kỳ sống của Perkinsus marinus gồm ba giai đoạn chính: Giai đoạn dinh dưỡng (trophozoite). giai đoạn tăng trưởng (hypnospore), giai đoạn bào tử động (zoospores).
2.1.1. Giai đoạn dinh dưỡng (trophozoite)
Giai đoạn nhân
Giai đoạn xảy ra trong các mô của vật chủ trực tiếp. Trong giai đoạn này Perkinsus marinus có dạng tế bào hình cầu với sự xuất hiện của không bào lớn, hơi lệch tâm và có nhân ở ngoại biên.
2.1.2. Giai đoạn tăng trưởng (hypnospore)
Giai đoạn này quan sát được khi ủ mô ký chủ bị nhiễm Perkinsus marinus trong môi trường lỏng thioglycollat (FTM), thể dinh dưỡng được phóng lớn (dạng hình cầu) và lớp vỏ của ký sinh trùng được phát triển dày hơn. Sau khi hypnospores được nuôi trong FTM bị cô lập và chuyển vào nước biển, hypnospores bắt đầu sự phân chia nhân tế bào và sự phân bào chu kỳ liên tiếp.
2.1.3. Giai đoạn bào tử động (zoospores)
Giai đoạn tăng sinh
Giai đoạn này hàng trăm bào tử động được hình thành trong màng tế bào gốc. Bào tử động chỉ có một nhân với không bào trong tế bào chất và di động hơn do hai roi chèn ở bên.

Theo tiêu chuẩn trên thì bệnh Perkinsus marinus ở loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ do loài sinh vật đơn bào Perkinsus marinus thuộc ngành bào tử Apicomplexa, ký sinh trên mang, màng áo, tế bào biểu mô ruột, các tổ chức mô liên kết của tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục của nhuyễn thể hai mảnh vỏ.

Chu kỳ sống của Perkinsus marinus gồm ba giai đoạn chính: Giai đoạn dinh dưỡng (trophozoite). giai đoạn tăng trưởng (hypnospore), giai đoạn bào tử động (zoospores).

Hóa chất tồn dư trong loài 2 mảnh vỏ năm 2024

Khi mắc bệnh Perkinsus marinus các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sẽ có những triệu chứng lâm sàng như thế nào? (Hình từ Internet)

Khi mắc bệnh Perkinsus marinus các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sẽ có những triệu chứng lâm sàng như thế nào?

The Mục 5 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8710-10:2015 về Bệnh thủy sản - Quy trình chuẩn đoán - Phần 10: Bệnh do Perkinsus Marinus ở nhuyễn thể hai mảnh nhỏ quy định về triệu chứng lâm sàng khi các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ nhiễm bệnh như sau:

Chẩn đoán lâm sàng
5.1. Đặc điểm dịch tễ
- Bệnh xảy ra ở đối tượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ như hàu, vẹm, ngao...;
- Bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường tập trung nhiều nhất vào mùa thu và ít nhất vào đầu mùa xuân khi nhiệt độ môi trường trên 20 oC, độ mặn từ 9‰ đến 12‰. Cường độ nhiễm bệnh tăng cao khi môi trường tăng độ mặn trên 12‰;
- Perkinsus marinus lây truyền trực tiếp giữa động vật thân mềm mà không cần vật chủ trung gian;
- Giai đoạn lây nhiễm là lúc bào tử động có 2 roi chuyển sang giai đoạn cơ thể dinh dưỡng xâm nhập vào các mô của vật chủ;
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ bị nhiễm bệnh với tỷ lệ cao, tỷ lệ chết có thể lên đến 95 % khi điều kiện môi trường bất lợi đối với vật chủ. Perkinsus marinus có thể tồn tại dai dẳng suốt vòng đời vật chủ.
5.2. Triệu chứng lâm sàng
- Biểu hiện chủ yếu của bệnh là nhuyễn thể hai mảnh vỏ sinh trưởng chậm;
- Tuyến sinh dục của nhuyễn thể hai mảnh vỏ chậm phát triển, giảm sức sinh sản và làm chậm chu kỳ sinh sản:
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ có hiện tượng nổi lên cát, mở vỏ và chết hàng loạt.
5.3. Bệnh tích
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ gầy rạc, mô chảy nước, co màng áo, tuyến tiêu hóa nhợt máu;
- Bào tử Perkinsus marinus xuất hiện từng đám trên màng áo, mang, mô liên kết, tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục với biểu hiện là những nốt sần màu nâu trắng hoặc những cái nang trên mặt của màng áo, mang;
- Sự nhiễm Perkinsus marinus nặng gây tổn thương và xung huyết nghiêm trọng trên mang, mô ruột và mô liên kết của nhuyễn thể hai mảnh vỏ.

Trường hợp các loài nhuyển thể hai mảnh vỏ mắc bệnh Perkinsus marinus thì sẽ có một số triệu chứng lâm sàng như:

- Biểu hiện chủ yếu của bệnh là nhuyễn thể hai mảnh vỏ sinh trưởng chậm;

- Tuyến sinh dục của nhuyễn thể hai mảnh vỏ chậm phát triển, giảm sức sinh sản và làm chậm chu kỳ sinh sản:

- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ có hiện tượng nổi lên cát, mở vỏ và chết hàng loạt.

Để chẩn đoán bệnh Perkinsus marinus có được dùng những mẫu bệnh phẩm đã chết hay không?

Theo Mục 6 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8710-10:2015 về Bệnh thủy sản - Quy trình chuẩn đoán - Phần 10: Bệnh do Perkinsus Marinus ở nhuyễn thể hai mảnh nhỏ quy định về mẫu bệnh phẩm dùng để chẩn đoán bệnh Perkinsus marinus như sau:

Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm
6.1. Phương pháp nuôi cấy
6.1.1. Lấy mẫu
Số lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ trên mỗi mẫu tùy thuộc vào kích cỡ của nhuyễn thể nhuyễn thể hai mảnh vỏ:
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ giống: lấy từ 10 con/mẫu đến 15 con/mẫu.
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ trưởng thành: lấy từ 5 con/mẫu đến 10 con/mẫu.
6.1.2. Bảo quản mẫu
Trong quá trình vận chuyển từ nơi thu mẫu về đến phòng thử nghiệm mẫu được bảo quản ở nhiệt độ từ 2 oC đến 8 oC không quá 24 h.
Mẫu chuyển đến phòng thí nghiệm phải được phân tích ngay.
6.1.3. Chuẩn bị mẫu
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ còn sống hoặc vừa chết chưa tách vỏ;
- Dùng dao mổ vô trùng cắt cơ mở vỏ nhuyễn thể hai mảnh vỏ và tách ra làm hai. Dùng panh, kéo vô trùng cắt 1 mẫu bệnh phẩm từ 5 mm đến 10 mm của phần mô áo, mang, ruột, phần cơ bị tổn thương.