làm thế nào nó có thể đánh giá thấp số lượng thất nghiệp?

Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Mỹ trồi sụt bất thường do tâm lý bất an về dịch viêm phổi COVID-19, báo cáo việc làm vừa công bố cho thấy sự vững chắc của nền kinh tế Mỹ ngay trước khi dịch bệnh lan ra.

làm thế nào nó có thể đánh giá thấp số lượng thất nghiệp?

Cuối tuần qua, Bộ Lao động Mỹ công bố báo cáo việc làm trong tháng 2/2020, nền kinh tế Mỹ tạo thêm 273.000 việc làm, vượt xa dự đoán 175.000 việc làm của các chuyên gia kinh tế. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc giảm xuống còn 3,5%, thấp nhất trong vòng hơn nửa thế kỷ qua.

Theo CNBC, số lượng việc làm trong cả tháng 2 và tháng 1 vừa qua đều vượt kỳ vọng và là hai tháng tốt nhất kể từ tháng 5/2018. Trước đó, Dow Jones khảo sát các nhà kinh tế và đưa ra con số dự đoán 175.000 việc làm cho tháng 2.

Theo báo cáo mới của Bộ Lao động, lương theo giờ trung bình của lao động Mỹ đã tăng 3% trong năm qua, số giờ làm việc trung bình một tuần – chỉ số phản ánh năng suất – nhích lên 34,4 giờ.

Trong khi đó, thị trường việc làm Mỹ còn có thêm nhiều tin tốt. Công tác rà soát cho thấy nền kinh tế Mỹ trên thực tế tạo ra nhiều hơn hàng chục ngàn việc làm so với báo cáo trong 2 tháng trước đó. Số lượng việc làm mới của tháng 12/2019 được điều chỉnh tăng từ 147.000 lên 184.000 việc làm, trong khi con số tháng 1/2020 điều chỉnh tăng từ 225.000 lên 273.000. Việc điều chỉnh này giúp cho cho ba tháng đầu năm 2020 lập kỷ lục về số việc làm mới tạo ra: trung bình 243.000/tháng; trong khi con số trung bình một tháng cho cả năm 2019 chỉ là 178.000 việc làm mới.

Báo cáo còn cho hay Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đang ở mức 63,4%, tức là mức gần sát với mức cao nhất hồi giữa năm 2013.

“Tỷ lệ này cho hay một số lượng vững chắc dân số trong độ tuổi lao động đã có việc làm hoặc đang chủ động tìm việc”, tờ Yahoo Finance nhật xét hôm 6/3.

Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng trái với sự bất ổn của thế giới, nền kinh tế Mỹ thực sự vững vàng trước khi các tin tức về dịch bệnh virus corona lan rộng ở Mỹ gây hoang mang tâm lý cho các nhà đầu tư chứng khoán.

“Báo cáo việc làm gần như hoàn toàn vào tháng 2, ngay trước khi cơn bão kinh tế do sự lây lan của virus corona gây ra càng ngày càng lớn trên khắp đất nước, đe dọa nhiều ngành kinh tế có sự tập trung đông dân, từ ngành phim ảnh, du lịch, hàng không, tới những ngành như bán lẻ”, tớ Washington Post nhận định hôm 6/3.

Ký giả James Freeman của tờ Wall Street Journal nhận định rằng các báo cáo việc làm mạnh là bằng chứng cho thấy các chính sách của Tổng thống Trump đang tạo ra “một nền kinh tế tuyệt vời:

“Đây là một bức hình cho thấy nền kinh tế này có thể làm gì khi có chính sách giảm thuế, giảm quy định quan liêu, trừ đi chiến tranh thương mại của ông Trump và việc ông giải quyết tình hình với Trung Quốc. Điều này thật tuyệt vời và nó là sự tiếp tục của nhiều tháng việc làm tăng trưởng thực sự mạnh, đây là một thị trường việc làm tuyệt vời, một nền kinh tế tuyệt vời”.

Trên trang Bloomberg, nhà kinh tế trưởng của Quỹ đầu tư FS Investments cũng cho rằng báo cáo việc làm tháng 2 của Mỹ là “tin tốt”:

“Bất chấp thế giới có nhiều bất ổn, nền kinh tế Mỹ vẫn vững vàng hơn nhiều các cường quốc kinh tế thế giới khác như Đức hay Nhật Bản. Một tin tốt ở đây là mặc dù chúng ta đang phải đối mặt với những sự cố không chắc chắn to lớn, điều mà tôi nghĩ sẽ tiếp tục tới hết năm 2020, nền kinh tế của chúng ta sẽ vượt qua khó khăn này ở một vị thế vững vàng hơn nhiều các nước khác”.

Tuy vậy, báo cáo việc làm tốt không giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi mà dịch bệnh do nCoV gây ra đang lây lan ngày càng rộng ở Mỹ. Chứng khoán Mỹ đóng phiên thứ Sáu với sắc đỏ tràn ngập các sàn giao dịch, ba chỉ số chứng khoán lớn nhất: Dow Jones, Nasdaq và S&P 500 đều giảm mạnh.

Ngành y tế và Hỗ trợ xã hội đứng đầu danh sách số lượng việc làm tạo thêm, với 57.000 vị trí trong tháng 2. Tiếp theo là ngành thực phẩm và ngành đồ uống, cả 2 đều tạo thêm 53.000 công việc. Đứng thứ 4 là các việc làm công, 45.000 lao động, do chính phủ tuyển thêm để điều tra dân số và tuyển dụng trong ngành giáo dục. Ngành xây dựng mở thêm 42.000 việc làm trong khi các ngành dịch vụ chuyên nghiệp và kỹ thuật đóng góp thêm 32.000 việc làm và ngành tài chính mở thêm 26.000 việc.

“Trong khi vẫn còn quá sớm để đánh giá tác động của virus corona đối với thị trường lao động, chúng ta có thể nói rằng thị trường lao động đang ở một vị thế rất tốt trước khi virus bắt đầu lây nhiễm. Nhưng vài tháng tới sẽ là bài kiểm tra xem sự vững vàng của thị trường lao động là như thế nào”, Nick Bunker, giám đốc nghiên cứu kinh tế tại Indeed nói với CNBC.

Trọng Đức – Theo Trithucvn

Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp mà nền kinh tế đạt được ứng với mức sản lượng tiềm năng. Lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm, đang tìm việc nhưng chưa có việc hoặc đang chờ nhận việc. Tỷ lệ thất nghiệp cho biết số người đang tìm việc nhưng chưa có việc hoặc đang chờ nhận việc chiếm bao nhiêu phần trăm lực lượng lao động.

Trong điều kiện các nguồn lực của nền kinh tế được sử dụng đến mức cao nhất có thể và sản xuất ra mức sản lượng như dự kiến tức là sản lượng tiềm năng, vẫn có sự chênh lệch giữa số người làm việc với lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp tại thời điểm điểm đó, chính là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thực tế, tỷ lệ thất nghiệp trong một nền kinh tế thường dao động xung quanh tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng do chu kỳ kinh tế, sản xuất bị thu hẹp, sản lượng thực tế thấp hơn mực tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên. Ngược lại, khi đẩy mạnh sản xuất trên mọi ngành kinh tế thì cần phải thuê mướn thêm nhân công, điều này làm cho tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống dưới mức thất nghiệp tự nhiên.

Các yếu tố xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên: Tỷ lệ tìm việc và tỷ lệ rời công việc. Tỷ lệ tìm việc là tỷ lệ những người thất nghiệp tìm được một việc làm mỗi tháng so với lực lượng lao động. Tỷ lệ tìm việc càng cao, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên càng thấp. Tỷ lệ rời công việc là tỷ lệ những người mất việc mỗi tháng so với lực lượng lao động. Tỷ lệ rời công việc càng cao, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên càng cao. Lưu ý, đây là tỷ lệ những người rời công việc thuộc hai dạng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu, trong thực tế còn một tỷ lệ rời bỏ công việc thuộc diện thất nghiệp do thiếu cầu (thất nghiệp keyness).

Mục lục

  • 1 Phân loại thất nghiệp tự nhiên
    • 1.1 Thất nghiệp tạm thời
    • 1.2 Thất nghiệp cơ cấu
    • 1.3 Tiền lương hiệu quả
  • 2 Tham khảo
  • 3 Xem thêm

Phân loại thất nghiệp tự nhiênSửa đổi

Thất nghiệp tạm thờiSửa đổi

Loại này chủ yếu bao gồm những người đang đi tìm việc, xuất thân từ thành phần bỏ việc làm cũ đi tìm việc làm mới vì họ không thỏa mãn với mức lương và môi trường làm việc hiện tại, họ sẵn sàng bỏ việc để tìm cho mình một công việc phù hợp nhất với khả năng và mong muốn của bản thân.

Thất nghiệp tạm thời cũng xuất hiện ở những người mới gia nhập hay tái nhập lực lượng lao động, họ là những người không phải lúc nào cũng có thể tìm được việc làm ngay khi mà mình muốn. Đối tượng phổ biến của thất nghiệp ở dạng này có thể là những sinh viên mới ra trường, quân nhân vừa xuất ngũ. Ví dụ sau đây sẽ chỉ rõ tại sao những người vừa được đào tạo xong lại bị thất nghiệp. Nhiều sinh viên ra trường với tấm bằng tốt nghiệp loại trung bình khá, lặn lội đi tìm việc ở khắp nơi nhưng toàn bị loại ngay ở vòng phỏng vấn bằng tiếng Anh bởi đây vốn là điểm yếu truyền thống của phần lớn sinh viên từ trước đến nay. Ngay cả đối với những sinh viên khác đi xin việc với vốn liếng là tấm bằng tốt nghiệp loại khá hoặc giỏi và trình độ tiếng Anh cũng khá thì tình hình cũng không khả quan hơn, họ lại vấp phải rào cản là nhiều nơi yêu cầu kinh nghiệm trong khi sinh viên vừa tốt nghiệp thì lấy đâu ra thứ ấy. Vậy là họ phải kiên nhẫn mang hồ sơ xin việc đến những nơi khác để tìm kiếm cơ hội phù hợp.

Thất nghiệp cơ cấuSửa đổi

Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động. Sự mất cân đối có thể xảy ra do 2 nguyên nhân:

- Diễn ra do cơ cấu lao động không phản ứng kịp thời với cơ cấu mới của cơ hội tìm việc. Sự thay đổi cơ cấu ngành hoặc công việc đòi hỏi trình độ cao hơn đối với người lao động làm cho những kỹ năng hiện tại của họ không còn phù hợp nữa. Sự mất cân đối xảy ra do sự không tương thích giữa các kỹ năng của những người tìm việc với những yêu cầu của những công việc có sẵn.

- Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng sẽ đưa đến thực tế là vùng phát triển nhanh thì bị thiếu hụt lao động trong khi đó, vùng phát triển chậm thì lại thừa lao động. Vấn đề là người lao động không dễ dàng di chuyển từ vùng thừa người đến chỗ thiếu người để xin việc vì họ bị thiếu thông tin từ những người tuyển dụng, hoặc cũng có thế do họ khó có thể rời bỏ quê hương đi nơi khác làm việc, do không thể tìm và thích nghi được với chỗ ở mới.

Tiền lương hiệu quảSửa đổi

Trong thực tế thì thường cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động (lượng thất nghiệp luôn dương) đứng ở phía doanh nghiệp thì sẽ chọn một trong hai cách là trả lương cho công nhân ở mức cân bằng hai là trả lương cho công nhân ở mức trên mức cân bằng để thu hút công nhân có chất lượng cao và tạo ra mục tiêu để công nhân tăng năng suất lao động (ai cũng muốn làm một công việc có lương cao và sẽ cố gắng làm việc để giữ công việc đó). Điều này làm tăng khoảng cách giữa cung và cầu lao động làm tăng tỷ lệ TNTN.

Tham khảoSửa đổi

  • Friedman, Milton (1976), Inflation and Unemployment (Nobel Prize Lecture).
  • Phelps, Edmund S. (2006), Macroeconomics for a Modern Economy (Nobel Prize Lecture).
  • Riley, Geoff (2006), Natural Rate of Unemployment, truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2009.

Xem thêmSửa đổi

  • Đường cong Phillips
  • NAIRU