Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, còn gọi là Bát Nhã Tâm Kinh, là bản kinh ngắn, gồm 260 chữ, thuyết minh về cái Lý Không và cái Thật Tướng của vạn pháp. Tuy ngắn nhưng Bát Nhã Tâm Kinh lại bao hàm toàn bộ những gì tinh yếu nhất của bộ Đại Bát Nhã 600 quyển. Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang gọi là tâm kinh, bởi vì Ngài ám chỉ kinh nầy là chủ tể của tất cả kinh thuộc loại Bát Nhã, tức là trí tuệ, cũng như chúng ta lấy tâm làm chủ tể cho con người của mình vậy. Bát Nhã tức là trí tuệ còn Ba La Mật là tới bờ bên kia. Bờ bên nầy là thế gian còn bờ bên kia là Niết bàn. Hoặc là bờ bên nầy là dẫy đầy tham lam còn bờ bên kia là Phật đạo. Cũng có thể hiểu là thấy Có, thấy Không là bờ bên nầy còn có đủ sáng suốt để phá cái Có, cái Không là đến bờ bên kia. Do đó Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh có nghĩa là bài kinh nằm lòng nói về Đại Trí tuệ.
*Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy: Bộ tâm kinh này có công năng khai mở trí huệ và phá trừ được ba chướng là báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng. Làm sao phá trừ được ? Do có trí huệ chân chánh, trí huệ vi diệu, tâm như như bất động, và chân tâm nên phá trừ được ba chướng. Chúng ta hiểu rõ giáo nghĩa tâm kinh bát nhã ba la mật đa thì mới có trí huệ chân chánh, dẹp trừ được ba chướng. Cổ kim đến nay, người tụng kinh này được cảm ứng vô lượng vô biên, sách vở không thể ghi hết lại được. Từ những mong cầu căn bản trong cuộc sống như: Tiêu tai, giải nạn; cầu mong giầu sang, cầu con cái; khỏi bệnh, được vui, khỏi các nạn nước, nạn lửa không ai không được cảm ứng. Phải nói rằng sức gia bị của Bát Nhã Tâm Kinh vô cùng thần diệu và hiếm có. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh( Bản đọc tụng)
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh( Bản Việt Dịch)
Tinh Yếu của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm KinhTrong Khai Thị, Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy: Bồ-tát Quán Tự Tại, khi thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La mật Ða, soi thấy năm uẩn là không, vượt hết mọi khổ ách.Bốn câu này chính là tinh yếu của Tâm Kinh. Nay lược giảng như sau: Quán Tự Tại nghĩa là hồi quang phản chiếu, tự quán sát mình tự tại hay không tự tại? Nói khác là có ở đây hay là không ở đây? Nếu như tự tại, có ở đây, tức tâm không chạy đi đâu để rong ruổi, không đuổi theo các thứ duyên. Nếu như không tự tại, không ở đây, tức tâm tán loạn, vọng tưởng rối bời, nếu quá đáng có thể đưa tới tình trạng khủng hoảng thần kinh, tâm lúc nào cũng tìm cơ hội, mong mọi người đến cúng dường. Nếu có những vọng tưởng như vậy quý vị sẽ không tự tại. Còn như Bồ-tát thì mọi hành vi đều hướng tới lợi ích của chúng sanh, coi đó là mục tiêu duy nhất, tuyệt đối chẳng vì lợi ích của chính mình. Ý hướng của kẻ phàm phu chúng ta thì ngược hẳn lại, tất cả đều nghĩ tới lợi ích của chính ta, mà không phải vì lợi ích cho người. Bất cứ làm một công chuyện gì, trước tiên phải tính thử xem có lợi cho mình hay không và khi thấy có lợi mới hành động. Ðó chính là sự biểu hiện của lòng ích kỷ tự lợi. Bởi đâu mà thế giới chẳng được hòa bình? Chính vì nguyên do đó. Quý vị tranh thì tôi đoạt lại, không có sự tương nhượng lẫn nhau, từ đó mới có chiến tranh, gây nên những cảnh nước mất nhà tan. *Vị Bồ-tát này thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Ða, từ thời vô thủy đến nay, đời đời kiếp kiếp đều thực tập pháp thâm sâu này, không có lúc nào gián đoạn. Tu pháp Bát Nhã thâm sâu, tức là:
Chúng ta là những người tu hành phải coi sáu loại tâm đó như là những tiêu chuẩn, hầu có thể xét đoán những hành động của chúng ta có đúng với pháp hay không? Nếu đúng thì hành động của ta là trí huệ, nếu sai thì là ngu si. Cũng có thể nói rằng siêng năng tu giới định huệ, dập tắt tham sân si tức là trí huệ; không tu giới định huệ, không diệt tham sân si là ngu si. Trí huệ và ngu si khác nhau là ở những điểm đó. *** Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tinh Yếu lược giảng ***Phải thực hành pháp Bát Nhã thâm sâu, mới có thể soi thấu năm mươi loại cảnh giới ấm ma trong năm uẩn. Trong sắc uẩn có mười loại ấm ma, trong thọ uẩn có mười loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong hành uẩn có mười loại, trong thức uẩn cũng có mười loại, cộng tất cả có năm mươi loại ấm ma. Tách ra từng phần thì còn có vô số vô lượng, nếu người tu không cẩn thận sẽ dễ dàng đi vào cảnh giới ma. Nói chung, hễ có tà tri tà kiến là thuộc về họ của ma, nếu là chánh tri chánh kiến thì thuộc về họ của Phật. Khi thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Ða thì sẽ nhận ra được minh bạch cảnh giới ma, không còn bị ma lay chuyển. Tới lúc đó, ngoài khả năng soi thấu năm uẩn là không mà ta còn vượt được hết mọi khổ ách. Năm uẩn là không, có nghĩa là Chân Không. Có câu nói:
Dịch là:
Hết mọi khổ ách tức là nói các khổ trong ba thứ tai, tám thứ nạn (tam tai bát nạn). *Nếu như theo đúng pháp trong bốn câu Kinh nói trên để tu tập, tu cho đến rốt ráo thì hành giả đã đạt tới trình độ chế ngự được bát phong. Thế nào là bát phong? Ðó là tám món gồm khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, phỉ báng và vinh dự. Những thứ này coi như tám ngọn gió có thể làm lay chuyển và quay cuồng những ai không đủ định lực. Nay giảng sơ qua như sau: Khen: Khen hay xưng tán. Nếu có người xưng tán mình một câu, mình nhận được một cảm giác rất ngọt ngào, còn hơn là mật nữa và mình thấy thoải mái. Chê: Chê là chê bai. Như có người chê bai mình, mình không thích, trong lòng không thoải mái. Khổ: Ðây là khổ não. Gặp chuyện gì phiền hà mình cảm thấy khổ sở. Khi gặp phiền não, mình hãy thử xem ta chịu được không? Vui: Vui hay khoái lạc. Gặp điều vui sướng không nên lấy làm đắc ý. Mọi điều khoái lạc đến thì chúng ta hãy coi đó là một sự khảo nghiệm, để thử xem tâm ý của mình ra sao. Lợi: Ðây là lợi ích. Ðược lợi ích mình cảm thấy vui, bị thiệt hại mình cảm thấy buồn, đó là sự biểu hiện của sự yếu kém định lực. Suy: Suy nghĩa là suy bại. Gặp bất cứ sự gian nan đến đâu, chúng ta không nao núng, có thất bại cũng không động tâm. *** Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tinh Yếu lược giảng ***Phỉ báng; Ví dụ có người nói xấu mình, mình không quan ngại! Mình coi chuyện đó như không có gì, tự nhiên sóng gió sẽ hết. Vinh dự: Như có người xưng tán mình, vinh danh mình, mình cũng không nên cảm động. Chỉ nên coi các thứ công danh như phù vân. Tám loại gió này chính là một pháp môn dùng để khảo nghiệm tâm của người tu. Gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh tâm đều không động. Nếu động tức là tu trì chưa đúng, định lực yếu kém; nếu không động thì người tu đã có công phu. Tuy nhiên, không nên tự mãn, như đại khái tự khoe rằng: Bát phong thì cũng chẳng lay động ta, định lực của ta kiên cố ví như kim cương . Thái độ này là sai rồi. Thuở xưa, vào đời nhà Tống có vị cư sĩ là Tô Ðông Pha, đã từng nghiên cứu ít nhiều về Phật Pháp. nhưng công phu thiền định thì còn yếu kém. Tuy nhiên, ông cho rằng định lực của ông cũng đã khá. Có một hôm, nhân nguồn cảm hứng dạt dào, ông làm bốn câu kệ sau:
Tạm dịch:
*Lúc đó ông tự nghĩ rằng mình đã khai ngộ, nên muốn có sự ấn chứng của Thiền sư Phật Ấn. Ông sai người qua sông mang bài kệ tới chùa Kim Sơn. Thiền sư xem qua liền đề bốn chữ: Ðánh rắm! Ðánh rắm!, ngay trên tờ giấy có bài kệ, rồi đưa cho thị giả mang về. Tô Ðông Pha xem xong, lửa vô minh bốc cao lên ngùn ngụt. Ông giận dữ: Sao lại có chuyện này? Ðây là bài khai ngộ! Bảo là đánh rắm là nghĩa gì? Nói rồi, ông đi qua sông kiếm Thiền sư Phật Ấn để chất vấn. Chẳng dè khi đến cổng chùa, Thiền sư Phật Ấn đã đứng chờ sẵn, thấy ông đi tới thì cười lớn: Ồ! Xin chào mừng Ðại Học Sĩ họ Tô. Bát phong không lay chuyển, nhưng lại bị cái rắm đẩy qua sông tới đây! Xin chào mừng! ( Hai ông chính là bạn thân, thường vui đùa với nhau). Tô Ðông Pha đương lúc cơn giận tràn hông sắp sửa bùng ra; nghe Thiền sư nói mấy câu, xét lại thấy có lý. Nhận công phu mình còn non nớt, nên hướng tới Thiền sư lễ tạ. Kể từ đó ông bỏ thói khẩu đầu thiền. Thiền là thực hành, chẳng phải nói suông. Chỉ nói mà không làm được, điều đó vô nghĩa. ( Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) Tuệ Tâm 2021. 5/5 - (1 bình chọn) |