Mười phương chư phật là gì

Quý vị đang tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ THẬP PHƯƠNG trong đạo Phật có nghĩa là gì. Ý nghĩa của từ THẬP PHƯƠNG theo từ điển Phật học như sau:

Mười phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Trên, Dưới. Thành ngữ: Chín phương Trời, Mười phương Phật. nghĩa là: Đông đảo loài Trời ở chín phương, đông đảo chư Phật ở mười phương. Theo Phật giáo Đại thừa, thì không chỉ có một vị Phật Thích Ca Mâu Ni, mà khắp 10 phương đều có các đức Phật nhiều vô kể.

“Mười phương Phật, chín phương Trời,

Chưa hay đến sự dưới đời oan ru.”

(Nam Hải Quan Thế Âm)

Cảm ơn quý vị đã tra cứu Từ điển Phật học online trên trang nhà niemphat.vn.

Quý vị cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa, thuật ngữ Phật học khác có liên quan với THẬP PHƯƠNG tương ứng trong từ điển Phật học online:

Reader Interactions

��elinks.tar��n�DF��)"�$�:!$n6,,�B�mӶ�v5� i ���M�˝���TU� �5Rf|>_�\��|4)ʮ�e�����oe[\-�������g�w�W7���o��W7!w���\\��6t��],�Z����/�����������~�����~�4*.��˶.�m�������y�V�P�zYԖ=����V�������r�/���� �oW��Ǩ� '��Ǹ1�����I�S��u_�U_ ��]355��}ه �:"{�a���l��)��(z ��9\�pUv�����;�>����W�W qg��!XӆX�pm��Ue=����<��wm�*�ڸ��c�?�[׮�"�h�5�Ӈ?��͠��n7C��������~��}Sv���>u�1zh嚩wbl�|U[��>�+6��0<��� }������p��&�&�1��E��ݔ�V�_��s�=��m��{��o\&e;>_�����ǻد� G��F�����A�8�) ���*z;a��Dݲ�z�Z���De�9qh3�@�i��k+�6S�g�+��ҵ���]��ְ�%�Dᶅ kX�*�=�q�X��r��]c�,�l$�a<��f����Ct��c]�j�ue��ܾMtS5n�|I�pA���6Ubwa@�ޑ��1lӣn�4�����mϱoG�m��ˏ�KܑkB�)�ib{�ѾuM���P�����+w6�C�ڢ�!�*���s�`��e�n�)�W6��!W9�DMk/�H�uÃ���S���JL��P���2������ �)}g����D�� �_�s���x%��-�����r:+��_��靸;$����WVUj����V&�o勹�D��c���M� ������uz �W�����1���B�ڈLL�=�1�M튏��Z��������x:�a�?�S+�j8ԅ�?��N��r��߅��~�v�q���q|�?Z5��˫E��t� ˫� �o����}�e��BO�r]�ug� � &{vct�Wur�b�u,7I�/�$ ; '0���v�ᆓ�O�U{�/�X'n; 0kWj}�+�������~�񪽷��&$� ��y����ѓv߾���aTY��>󔋺[���K�t�5ki���b�PKG�O�}��}�=�� >�0�m�Wv>��Z�L =-��i%�UA�ח|��{;{_�E�����S���d��V�/���菟���������}������ ���~w{w{o��������Ɩ�ϣ���h����)�i�L��I�E�4��1�?�d`�7~Β:��o3� x�?7��y'� ��x� �S *���JP � �1ՠ97��`�#��$�g�t� �T��@�&�g( ��%d��P��'TH��L���P���X����P8� �/$�0$�1�2$�3T ) 9e �6�7$�8d���C��3L����P��?T�Q��)D�O9DaJD�7���Ii�;��H�Q�D��*1[d;�>�D��M�N�OD�BQ�FQ8��SNKEqZE�VTB�Tb��fQ8���[T�r���(3�J7�3zR0*Eè�IŨ�iɨ� ˨�4#�<�D�M

1U�8]#���Yۨu�0}���c��S�����<%�uTڑ�ޑ�GB�G&��{|)g��}T��Q��T��H% R����Wo����o������n��������������F������������#��#��m�\� ���`| �x�H��F�=Xg�J�w�Y����(�ޑ���0}�8m�`�� �� �=�"�x���

Lời ghi: “Mười phương” là Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên và dưới. Quá khứ, hiện tại và vị lai là 3 đời. Mỗi Phật ta đều cúng, gọi là “tất cả phân thân vô lượng, khắp mười phương cõi, nên gọi “chư Phật”.

Nếu luận chư Phật hiện tại của biển kiếp xưa trước, thì nay gọi là quá khứ, cũng là quá khứ của vị lai. Cho nên hơi thở ra vào trong một sát na (niệm) mà thành 3 đời.

Lại “chư Phật” tức là không thể nói không thể nói chư Phật ở hướng Đông không thể nói không thể nói thế giới, thảy đều trước mặt thọ tôi cúng dường.

Tâm thức con người biến đổi khôn lường từng sát na, từng giây, từng phút, duyên theo ngoại cảnh do đó cứ mỗi tâm niệm thay đổi chúng ta đang sống một trong mười cảnh giới tương ứng với tâm niệm đó cho nên có lúc chúng ta an lạc, có lúc chúng ta đau khổ. Vì thế nếu chúng sinh biết sống trong tỉnh thức chánh niệm để kiểm soát những biến hành của thân, thọ, tâm, pháp thì chắc chắn sẽ có an lạc, không rơi vào cảnh khổ.

  1. Chín phương trời hiểu theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc và trung ương.

Mười phương chư phật là gì

Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã hay cửu thiên bao gồm trung ương và tám phương hướng – tức là tứ chính (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).

Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:

(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên (quân: đều đặn, quân bình); (2) Phương Đông là Thương Thiên (thương: màu xanh biếc); (3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên (biến: thay đổi); (4) Phương Bắc là Huyền Thiên (huyền: màu đen huyền); (5) Phương Tây Bắc là U Thiên (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa); (6) Phương Tây là Hạo Thiên (hạo: sáng trắng); (7) Phương Tây Nam là Chu Thiên (chu: màu đỏ như son); (8) Phương Nam là Viêm Thiên (viêm: nóng, ngọn lửa); (9) Phương Đông Nam là Dương Thiên (dương: trái với âm).

Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: phương Đông Bắc là Mân Thiên (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).

Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.

Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên (Trung: ở giữa); Tiện Thiên (tiện: dư thừa); Đồ Thiên (đồ: không có); Phạt Canh Thiên (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên (tối: trọn một năm); Quách Thiên (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên (thành: thành tựu, làm xong).

Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: cửu trùng, cửu giai, cửu tiêu, cửu thiên. Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:

(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên ; (2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên; (3) Phạn Giám Tu Diên Thiên ; (4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên ; (5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên ; (6) Động Huyền Hóa Ứng Thinh Thiên ; (7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên ; (8) Cao Hư Thanh Minh Thiên ; (9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên .

(Tham khảo: Trương Chí Triết chủ biên, Đạo giáo văn hóa từ điển, Giang Tô Cổ Tịch xuất bản xã, 1994, trang 82).

Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.

  1. Mười phương Phật tức là thập phương chư Phật . Mười phương (hay thập phương) gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).

Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật; Phật có ở khắp nơi.

Phương chư Phật là gì?

Lời ghi: “Mười phương” là Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên và dưới. Quá khứ, hiện tại và vị lai là 3 đời. Mỗi Phật ta đều cúng, gọi là “tất cả phân thân vô lượng, khắp mười phương cõi, nên gọi “chư Phật”.

Tại sao gọi là 9 phương trời?

đúng là có chín phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông. Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương bên trên là chín. Đấy là trời chỉ có chín phương thôi.

10 phường Tăng là gì?

Mười phương Phật, Pháp, Tăng có nghĩa là Phật Pháp Tăng trong toàn vũ trụ. Nói khác đi, là Phật Pháp Tăng từ các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, phương Trên, và phương Dưới. Trong Nhất Thể Tam Bảo, Phật giáo đã định nghĩa rất rõ về ba ngôi Phật-Pháp-Tăng.

3 đội chủ Phật là gì?

Tam thế phật là aiPhật quá khứ là Phật A Di Đà tượng trưng cho các đức Phật trong quá khứ , Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni , Phật tương lai là Phật Di Lặc tượng trưng cho các vị Phật tương lai.